Em không phân biệt được Thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản. Các anh chị nào hiểu rõ xin giúp em phân biệt và cho ví dụ cụ thể. Tại sao đối chiếu công nợ lại là thử nghiệm kiểm soát trong khi số dư nợ trình bày trên BCTC (thì nó phải là thử nghiệm cơ bản chứ?) ?
Thử nghiện cơ bản gồm thủ tục phân tích và thử nghiệm chi tiết. Xin giúp em phân biệt?
Cám ơn các anh chị.
Chờ hoài không thấy ai trả lời, thôi
Cothant trả lời luôn vậy
Trước đây thời còn đi học mình cũng rất mơ hồ về mấy cái này. Cũng do mấy thầy hay dạy học tủ bằng cách: xem cái kiểm tra nào liên quan tới số dư thì là thử nghiệm cơ bản...
Trước tiên là phân biệt thử nghiệm kiểm soát (TOC - test of control) và thử nghiệm cơ bản (substantive test), cái này mình chỉ nói về TOC thôi, cái còn lại bạn tự suy ra nhé: thử nghiệm kiểm soát là công việc bạn đánh giá và kiểm tra hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị (được chuẩn mực kiểm toán quy định bắt buộc: ISA 315). Theo đó, bạn phải xác định những key control của đơn vị và kiểm tra nó.
VD: yêu cầu mua hàng của bộ phận phải được trưởng bộ phận ký duyệt, bạn kiểm tra bằng cách xem đúng cái chữ ký trên tất cả các yêu cầu mua hàng hay không, đó là 1 cái TOC. Ngoài ra bạn không xem thêm số liệu gì khác trên cái đó hết, những cái đó lại là một TOC khác.
Hay ví dụ khác, CFO có tiến hành kiểm tra và đánh giá hoạt động của đơn vị hàng tháng thông qua báo cáo tài chính, và đánh giá những biến động bất thường như CP bán hàng tăng cao so với tháng trước là tại sao. Việc này nếu bạn xác định là key control thì bạn lại kiểm tra bằng cách phỏng vấn CFO cho các biến động và xin các báo cáo tài chính hàng tháng đã được phân tích đó về làm bằng chứng chẳng han.
Rồi việc làm bank reconciliation, monthly cash count .... của đơn vị, v.v.....đó đều là những thủ tục kiểm soát nội bộ.
Hay tại một quy trình khác, kế toán thanh toán hàng tháng phải gửi thư xác nhận công nợ và đối chiếu công nợ với khách hàng, để kiểm tra việc này bạn lại phải thu thập các thư xác nhận
do kế toán gửi để kiểm tra xem họ có làm và xử lý chênh lệch hay không.
Nói theo lý thuyết, một khi bạn tin tưởng vào hệ thống KSNB của doanh nghiệp, các thủ tục phân tích (analytical procedure) và kiểm tra chi tiết (TOD - test of detail) của bạn sẽ giảm xuống, ví dụ như khi bạn đã kiểm tra và tin tưởng rằng thư xác nhận công nợ đơn vị tự gửi hàng tháng có thể tin cậy được, nếu bạn gửi thêm thì cũng chỉ nhận được y chang thì bạn sẽ bị over-audit. Do đó số mẫu chọn để gửi thư xác nhận công nợ của bạn sẽ giảm xuống, đúng không nào? (mà nói gì thì nói, nó cũng chỉ là lý thuyết, haiz...)
Quay trở lại câu hỏi của bạn về thư xác nhận,
Cothant nghĩ có lẽ do câu hỏi đưa ra không rõ ràng nên bạn đã bị hiểu lầm giữa việc
kiểm tra đối chiếu công nợ của kế toán và
kiểm toán gửi đối chiếu công nợ.
Vậy thôi đó, mình ghi hơi lan man tí, hi vọng bạn đọc dễ hiểu.