vấn đề là TSCĐ được thể hiện trên BCTC Bạn đối chiếu với khái niệm khấu hao theo VAS 03, 04 xem. Theo chuẩn mực kế toán và chế độ tài chính thì khấu hao đơn thuần là việc DN phân bổ giá trị phải khấu hao của TSCD trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của nó. Tất nhiên việc phân bổ này phải phù hợp với cách thức mà TS mang lại lợi ích cho DN. Khấu hao chẳng tạo ra lợi nhuận. Nếu lập luận như bạn thì tất cả các chi phí tính thuế đều là dòng thu của DN. Theo quan điểm của Kế toán tài chính thì không phải như vậy.
Khấu hao phải thực hiện vì chuẩn mực và chế độ kế toán quy định. Việc luật thuế quy định khấu hao TSCD là chi phí hợp lý là chuyện của nhà thuế, kế toán có thể thực hiện khấu hao không cần đúng chính sách tài chính mà chỉ cần theo chuẩn mực kế toán (trừ các DN nhà nước).
Ở đây tôi xin trích nguyên văn một đoạn trong Financial Accounting của Hermanson & Edwards (9 ed). (tôi không trích sách Việt Nam vì nhiều sách Việt Nam chưa hiểu đúng về khấu hao, về cơ bản các sách kế toán của các nước đều có quan điểm như sách tôi dẫn):
Vấn đề là tôi cũng không phải là dân kế toán! Tôi chẳng cần phải học thuộc các chuẩn mực hay quy định một cách máy móc. Tôi có xem qua các văn bản ấy trước khi được bạn yêu cầu. Điều tôi đang giải thích cho người đưa ra câu hỏi ở trên là ý nghĩa các con số của TSCĐ.
Chúng ta hãy bắt đầu từ việc thay đổi luật công ty của Việt Nam thành luật doanh nghiệp.
Khi cơ chế chưa thay đổi! Các báo cáo kế toán chưa mang tính quản trị nhiều mà chủ yếu phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô của nhà nước về TS của nhà nước đang được các doanh nghiệp nhà nước sử dụng. Các báo cáo tài chính còn đơn giản và chưa yêu cầu cấp thiết về việc phân chia hợp lý các khoản mục trên BCTC như: nợ ngắn hạn hay dài hạn, đầu tư tài chính, TSCĐ thuê tài chính...Bên cạnh đó mã số TK các doanh nghiệp lúc bấy giờ sử dụng thì TK mẹ chỉ có 2 con số. Khi luật doanh nghiệp ra đời, song song với cơ chế mở cửa và phát triển khối kinh doanh tư nhân thì các báo cáo TC đòi hỏi phải minh bạch hơn, dễ hiểu hơn và người đọc có thể đưa ra quyết định đầu tư phù hợp nhất là với các doanh nghiệp cổ phần niêm yết. Các số liệu của BCTC phải là các con số biết nói nên buộc phải chi tiết có thể: nợ ngắn hạn, dài hạn, đầu tư ngắn hạn, dài hạn... Như vậy, các con số trên BCTC đều mang một ý nghĩa của nó và về bản chất nó mang tính quản trị dùng trong phân tích tài chính. Các chỉ tiêu có thể gây ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC của doanh nghiệp gồm: doanh thu; chi phí (lương công nhân, khấu hao - CPSX chung, Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, các khoản mục tiền tệ, Công cụ tải chính: đầu tư ngắn và dài hạn, đòn bẩy tài chính)...
Người ta đang bàn đến các thủ thuật kế toán do sơ hở của luật để tạo nên những con số đẹp trong BCTC trong đó có sử dụng khấu hao.
Bây giờ quay lại vấn đề tại sao khấu hao là dòng tiền? và tại sao nó là lợi ích?
Bản thân TS doanh nghiệp đang sở hữu nó phải đem lại lợi ích trong tương lai cho doanh nghiệp. Lợi ích không tự nó sinh ra được mà phải kết hợp các yếu tố khác trong quá trình sản xuất: lao động, vốn, đối tượng lao động. Chỉ có lao động mới tạo ra thặng dư hay GTGT nhưng TS cũng đem lại lợi ích cho doanh nghiệp khi kết với các yếu tố khác để tạo nên Thặng dư.
Doanh nghiệp hoạt động đơn thuần chỉ là lợi nhuận, lợi nhuận phải đo đếm được và được thể hiện bằng tiền: Phần giá trị thặng dư được gọi là lợi nhuận nhưng thực tế nên hiểu rằng doanh nghiệp bỏ ra một khoản tiền nhằm thu về những khoản tiền lớn hơn trong tương lai. Vì vậy, khi đầu tư mua sắm và sở hữu TSCĐ thì doanh nghiệp trong tương lai cũng sẽ thu được 1 khoản tiền tương ứng. Các văn bản luật đưa ra hướng dẫn thực hiện khấu hao cũng không ngoài mục đích đảm bảo cho doanh nghiệp thu được ít nhất khoản lợi ích mà họ đã bỏ ra song song với việc doanh nghiệp vẫn phải đảm bảo đóng góp cho bộ máy quản lý vĩ mô trong môi trường mà doanh nghiệp hoạt động (điều này giải thích tại sao doanh nghiệp vẫn được khấu hao nhanh nhưng vẫn phải đảm bảo có lãi - đóng góp cho Nhà Nước).
Nghiễm nhiên tất cả các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra đều là dòng thu:
Phương kế toán cơ bản: doanh thu = Tổng CP + Thặng dư. Nhưng các chi phí bằng tiền phát sinh trong kỳ được bù đắp ngay bằng tiền nên tại thời điểm hiện tại nó không tạo ra khoản tích luỹ bằng tiền của doanh nghiệp.Còn khấu hao của TS, do TS được đầu tư ngay lúc đầu hoạt động, khoản chi này được Kế toán phản ảnh là TSCĐ và nó chuyển từ hình thái tiền tệ ban đầu sang hình thái vật chất hiện hữu và nghiễm nhiên việc sử dụng và trích khấu hao định kỳ tạo ra một dòng tiền bù đắp lại dòng tiền trước kia cho doanh nghiệp. Và tại thời điểm hiện tại thì khấu hao tất yếu đem lại một dòng tiền ròng.
Về phương diện con số kế toán là như vậy! còn về phương diện kinh tế chính trị: 03 yếu tố: đối tượng lao động, tư liệu lao động, sức lao động tạo nên thặng dư: lợi ích. Và các nhà kinh tế cho rằng chỉ có sức lao động mới tạo ra thặng dư nhưng nếu không có sự kết hợp với 2 đối tượng còn lại sức lao động cũng là vứt đi. mà 2 yếu tố còn lại được thể hiện trên BCTC thì có thể chuyển hoá cho nhau được. không có thể định lượng được TSCĐ đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu lợi ích nhưng nếu cho rằng nó không đem lại lợi ích thì người ta đã chẳng sinh ra hệ số ICOR, tỷ suất lợi nhuận trên tổng TS và TSDH. Với nền kinh tế hiện đại và các con số kế toán phục vụ mục đích quản trị thì nên hình dung ra công thức lợi ích do TSCĐ mang lại chính bằng: Khấu hao + delta lợi nhuận (phần delta lợi nhuận này là phần lợi ích do TS mang lại trong tổng lợi nhuận do các yếu tố cấu thành quá trình sản xuất tạo nên)