phản ánh các đối tuợng kế toán nhưng ở ohạm vi và mức độ khác nhau, giữa chúng có quan hệ mật thiết với nhau.Tài khoản phản ánh, kiểm tra sự vận động của từng đối tượng kế toán trong suốt quá trình hoạt động. Bảng cân đối kế toán phản ánh, kiểm tra khái quát các đối tượng kế toán sau một thời kỳ hoạt động,Chúng hỗ trợ lẩn nhau, bổ sung cho nhau, cùng thực hiện các chức năng của kế toán.
Trong quá trình ghi chép, mối quan hệ đó được thể hiện như sau :
Đầu năm, đầu kỳ, khi mở tài khoản, phải căn cứ vào bảng cân đối kế toán cuối kỳ trước, Số liệu trên bảng cân đối kế toán cuối kỳ trước, Số liệu phản ánh trên bảng cân đối kế toán cuối kỳ trước chính là số dư đuầ kỳ này của tài khoản.
Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán giúp xác định số lượng tài khoản tối thiểu cần mở Căn cứ vào số liệu cột “ số cuối kỳ” trên bảng cân đối kế toán cuối kỳ trước để ghi vào “số dư đầu kỳ” trên các tài khoản kế toán đối ứng. Tuy nhiên số lượng tài khoản kế toán thường được mở nhiều hơn các khoản mục trên bảng cân đối kế toán vì có thể có những tài khoản tài sản và tài khoản nguồn vốn không có số dư cuối kỳ trước trên bảng cân đối kế toán nhưng lại có số phátsinh trong kỳ này. Những tài khoản doanh thu, thu nhập; các tài khoản chi phí và tài khoản “xác định kết quả kinh doanh” là những tài khoản không bao giờ có số dư , không được phản ảnh trên bảng cân đối kế toán nhưng vẫn phải mở để phản ảnh tình hình và kết quả kinh doanh trong kỳ.
Trong kỳ, kế toán sử dụng các tài khoản đã mở để ghi chép phản ánh các ngiệp vụ kinh tế phát sinh một cách đầy đủ, liên tục
Cuối năm, cuối kỳ, kế toán tổng cộng số phát sinh Nợ,phát sinh Có và tính ra số dư cuối kỳ trên các tài khoản. Số dư cuối kỳ trên các tài khoản chính là căn cứ để lập bảng cân đối kế toán cuối kỳ, bảng cân đối kế toán cuối kỳ lại là cơ sở để mở các tài khoản kế toán vào đầu kỳ tiếp theo.