31.Lợi nhuận (Profit)
Thu nhập ròng có được do sản xuất hay bán được các hàng hóa và dịch vụ: nghĩa là, số tiền còn lại dành cho nhà doanh nghiệp sau khi thanh toán tất cả các khoản vốn (lãi suất), đất đai (tô), lao động (bao gồm chi phí quản lý, lương và tiền công), nguyên liệu thô, thuế và khấu hao. Nếu như doanh nghiệp làm ăn kém cỏi, lợi nhuận có thể là số âm, và trong trường hợp đó thì chúng biến thành các khoản lỗ
32.Lợi nhuận sau thuế (Net Profit After Taxes; NPAT)
Lợi nhuận sau thuế là khoản lợi nhuận chịu thuế sinh ra từ các loại hoạt động doanh nghiệp, bao gồm: sản xuất-kinh doanh, tài chính và đầu tư trừ đi khoản thuế thu nhập doanh nghiệp. Thông thường, người ta hay gọi tắt là "lợi nhuận" trên thực chất, lợi nhuận trước thuế cần được phân biệt rõ ràng. Lợi nhuận sau thuế có hai cách phân chia chính là chia cho cổ đông (thể hiện dưới dạng cổ tức) và lợi nhuận giữ lại ở doanh nghiệp để đầu tư, phát triển tiếp các chu kỳ kinh doanh sau này.
33.Nợ ngắn hạn (Current liabilities)
Một khoản nợ của công ty hay một nghĩa vụ nợ mà thường xác định trong khoảng thời gian 1 năm ( năm tài chính ). Tài sản nợ ngắn hạn trên bảng cân đối kế toán của công ty bao gồm những khoản nợ ngắn hạn, tài khoản có thể phải trả, các khoản nợ tích lũy và các loại khoản nợ khác.
Về bản chất, đó là những hóa đơn phải trả giữa người đi vay và người cho vay trong một khoảng thời gian ngắn. Thông thường, công ty dùng tiền mặt trong tài sản ngắn hạn để trả cho nợ ngắn hạn của họ.
Thông thường, các nhà phân tích hoặc những người cho vay sử dụng hệ số khả năng thanh toán nợ hiện tại, hoặc hệ số khả năng thanh toán nhanh để xác định khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của công ty.
Trong kế toán, thuật ngữ này được dùng để chỉ những khoản nợ của bảng cân đối kế toán trong cột ghi nợ. Nợ ngắn hạn thường phải trả trong khoảng một năm hoặc ít hơn ( ví dụ tiền lương, thuế.. ), trái với nợ dài hạn hoặc nợ cố định.
34.Phương pháp kế toán phát sinh (Accrual Accounting)
Phương pháp kế toán phát sinh là phương pháp kế toán ghi nhận hoạt động và vị thế của công ty thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong doanh nghiệp. Kế toán ghi nhận tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ dù nghiệp vụ ấy có giao dịch bằng tiền mặt hay không. Tính hợp lý của phương pháp này được giải thích qua nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí tại thời điểm giao dịch xảy ra hơn là tại thời điểm xảy ra sự thanh toán tiền giữa doanh nghiệp và người bán, người mua. Phương pháp này cũng cho phép các dòng tiền vào/ ra hiện tại có thể kết hợp với các dòng tiền vào/ ra trong tương lai nhằm đưa ra một bức tranh chính xác hơn về tình hình tài chính hiện tại của doanh nghiệp. Phương pháp kế toán phát sinh được xem là phương pháp thực hành kế toán tiêu chuẩn đối với hầu hết các doanh nghiệp. Phương pháp này cho thấy một bức tranh chính xác hơn về vị thế hiện tại của doanh nghiệp, khác với phương pháp kế toán tiền mặt chỉ ghi nhận giao dịch khi có giao dịch tiền mặt xảy ra. Càng ngày phương pháp này càng được ưa chuộng và thể hiện tính ưu việt hơn khi số lượng giao dịch của doanh nghiệp càng nhiều và càng phức tạp hơn. Nhu cầu sử dụng một phương pháp kế toán có thể phản ánh chính xác hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp trở nên cấp thiết. Việc bán hàng chịu cho khách hàng cũng như với các dự án mà các dòng doanh thu sẽ trải dài qua một thời gian chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính công ty tại thời điểm giao dịch. Do đó, những hoạt động như vậy nên được phản ánh trên các báo cáo tài chính trong cùng thời gian báo cáo mà những giao dịch này xảy ra. Ví dụ, khi doanh nghiệp bán Tivi cho khách hàng sử dụng thẻ tín dụng, phương pháp kế toán tiền mặt và kế toán phát sinh sẽ ghi nhận sự kiện này khác nhau. Doanh thu bán Tivi sẽ chỉ được ghi nhận chừng nào doanh nghiệp nhận được tiền do khách hàng trả. Do vậy, nếu Tivi được mua dựa trên thẻ tín dụng, doanh thu này có thể sẽ không được ghi nhận mãi cho đến tháng sau hoặc năm sau. Tuy nhiên với góc nhìn của phương pháp kế toán phát sinh thì ghi nhận như phương pháp kế toán tiền mặt sẽ không chính xác bởi vì tuy doanh nghiệp chưa nhận được tiền mặt nhưng nghiệp vụ bán hàng đã xảy ra và đã hoàn tất. Do vậy, phương pháp kế toán phát sinh sẽ ghi nhận doanh thu ngay tại thời điểm quyển sở hữu cái Tivi được chuyển sang cho khách hàng. Thậm chí ngay cả khi tiền mặt chưa chuyển vào tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp thì kế toán vẫn ghi nhận doanh thu trên tài khoản theo dõi “ các khoản phải thu”, và do đó vẫn phản ánh chính xác doanh thu hoạt động của doanh nghiệp
35.Sổ cái kế toán (Ledger)
Quyển sổ lưu giữ tất cả các hoạt động trong kinh doanh liên quan tới từng tài khoản kế toán nhất định. Trên thực tế, sổ cái là bản phân loại và tóm tắt các nghiệp vụ tài chính hàng ngày cho từng tài khoản kế toán và là cơ sở chuẩn bị để lên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh.
Sổ cái cũng cho phép đọc số dư trong một tài khoản nhất định tại một thời điểm cụ thể. Ví dụ, số dư tiền mặt cuối tháng có thể được xem để quyết định nếu công việc kinh doanh có rắc rối về tiền mặt. Ngoài ra nhìn vào tài khoản tiền mặt ta cũng có thể biết các khoản chi và tiêu tiền mặt trong một giai đoạn.
Trong thời đại máy tính, các hoạt động kinh doanh thường được lưu trữ trong băng từ hay đĩa thay vì trong sổ sách. Nhưng các nguyên tắc kế toán vẫn được giữ nguyên không thay đổi.
36.Số dư tài khoản (Account balance)
Nghiệp vụ kế toán lấy tài sản có trừ tài sản nợ thực hiện vào cuối mỗi kỳ báo cáo kế toán. Thuật ngữ được áp dụng với rất nhiều mối quan hệ trong kế toán, như với ngân hàng, các công ty thẻ tín dụng, các công ty môi giới và các cửa hàng, cũng như sự phân loại các giao dịch trong kế toán. Cùng một nghiệp vụ kế toán có thể là số dư tài sản có hoặc số dư tài sản nợ tùy thuộc bạn thuộc phía nào của giao dịch.
37.Tài chính doanh nghiệp (Corporate finance)
Tài chính doanh nghiệp là một lĩnh vực đặc biệt của ngành tài chính, liên quan đến việc đưa ra các quyết định về mặt tài chính của một doanh nghiệp, các công cụ cũng như phân tích được sử dụng để đưa ra các quyết định này. Mục đích chủ yếu của tài chính doanh nghiệp là nhằm nâng cao giá trị doanh nghiệp đồng thời tránh được các rủi ro đáng tiếc về mặt tài chính.
Các nguyên tắc đối với tài chính doanh nghiệp có thể chia dựa trên kĩ thuật sử dụng và quyết định đưa ra là dài hạn hay ngắn hạn. Các quyết định đầu tư vốn dài hạn dựa trên các lựa chọn dài hạn về dự án đầu tư, đầu tư theo phương thức góp cổ phần hay cho vay nợ, khi nào và liệu có nên trả cổ tức cho các cổ đông hay không? Các quyết định tài chính doanh nghiệp trong ngắn hạn thường được gọi là hoạt động quản lý vốn lưu động, chủ yếu giải quyết vấn đề cân đối nợ ngắn hạn và tài sản ngắn hạn, trọng tâm là quản lý tiền mặt, hàng tồn kho, vay ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Tài chính doanh nghiệp liên qua mật thiết với quản trị tài chính, khái niệm có nội hàm rộng hơn, bao gồm tất cả các kĩ thuật tài chính cho dù kĩ thuật này có đang được áp dụng tại các doanh nghiệp kinh doanh hay không.Tài chính doanh nghiệp quan tâm đến mọi mặt của hoạt động tài chính trong một doanh nghiệp, trong đó có các mối quan tâm chủ yếu sau:
Quyết định về vốn đầu tư
Đây thường là quyết định có tính chất dài hạn, liên quan đến các tài sản cố định hay cấu trúc vốn. Quyết định ở đây có thể dựa trên một vài chỉ tiêu có sự liên hệ với nhau. Thông thường, bộ phận quản lý phải tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp bằng cách đầu tư vào các vào dự án có NPV dương, với tỉ lệ chiết khấu hợp lý.
Đánh giá các cơ hội đầu tư
Thông thường, giá trị của một dự án được đánh giá thông qua phương pháp chiết khấu dòng tiền. Dự án nào có kết quả tốt nhất_thường được thể hiện qua NPV thì dự án đó sẽ được lựa chọn. Nhưng để làm được điều này công ty cần xác định được quy mô và thời điểm thu được tiền lãi từ dự án. Dòng tiền tương lai sau đó sẽ được chiết khấu để quy về giá trị hiện tại của nó, so sánh với chi phí bỏ ra để thực hiện, nếu tiền thu về lớn hơn thì dự án là khả thi, và công ty có thể tiến hành hoạt động đầu tư.
Quyết định đầu tư
Muốn ra một quyết định đầu tư yêu cầu cần phải đánh giá kĩ lưỡng và đúng đắn các cơ hội đầu tư, các dự án, hay nói cách khác là phải đi giải một bài toán có hàm số phức hợp của ba biến là khả năng, quy mô và thời gian thu được dòng tiền tương lai. Sau khi đã đánh giá cơ hội đầu tư, doanh nghiệp sẽ lựa chọn và đưa ra quyết định đầu tư. Lúc này các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ phải tính toán để phân bổ các nguồn lực hữu hạn sao cho có hiệu quả cao nhất.
38.Tài sản(Asset)
1. Một tài nguyên có giá trị kinh tế được một cá nhân, một tổ chức hay một quốc gia sở hữu hoặc quản lý với hy vọng thu được lợi nhuận từ chúng.
2. Một khoản trong bản cân đối đại diện cho những gì công ty sở hữu.
Theo Investopedia:
1. Tài sản được mua để tăng giá trị một công ty hoặc để tạo thuận lợi cho hoạt động của công ty. Có thể nghĩ về tài sản như một thứ có thể sản sinh ra lưu lượng tiền mặt, cho dù nó là trang thiết bị sản xuất của một công ty hay căn hộ cho thuê của một cá nhân.
2. Trong kế toán, tài sản có thể là tài sản ngắn hạn hoặc tài sản cố định. Ngắn hạn nghĩa là tài sản sẽ được tiêu thụ trong vòng 1 năm. Thông thường, chúng bao gồm: tiền mặt, các khoản phải thu, hàng trong kho. Tài sản cố định là những tài sản sẽ đem lại lợi ích trong vòng lâu hơn 1 năm, như trang thiết bị, nhà cửa, bất động sản,...
39.Tài sản cố định (Fixed assets)
Tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ kinh doanh (nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn hoăch bằng 1 năm)
Trên thực tế, khái niệm TSCĐ bao gồm những tài sản đang sử dụng, chưa được sử dụng hoặc không còn được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh do chúng đang trong quá trình hoàn thành (máy móc thiết bị đã mua nhưng chưa hoặc đang lắp đặt, nhà xưởng đang xây dựng chưa hoàn thành...) hoặc do chúng chưa hết giá trị sử dụng nhưng không được sử dụng. Những tài sản thuê tài chính mà doanh nghiệp sẽ sở hữu cũng thuộc về TSCĐ.
Đặc điểm của TSCĐ : tuổi thọ có thời gian sử dụng trên 1 năm, tức là TSCĐ sẽ tham gia vào nhiều niên độ kinh doanh và giá trị của nó được chuyển dần vào gíá trị sản phẩm làm ra thông qua khoản chi phí khấu hao. Điều này làm giá trị của TSCĐ giảm dần hàng năm. Tuy nhiên, không phải mọi tài sản có thời gian sử dụng trên một năm đều được gọi là TSCĐ, thực tế có những tài sản có tuổi thọ trên một năm nhưng vì giá trị nhỏ nên chúng không được coi là TSCĐ mà được xếp vào tài sản lưu động. Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính, một tài sản được gọi là TSCĐ khi có đặc điểm như đã nêu đồng thời phải có giá trị trên 10 triệu đồng.
Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm:
- Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định), thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như: nhà cửa, vật kiến trúc; máy móc, thiết bị; phương tiện vận tải; dụng cụ văn phòng...
-Tài sản cố định vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh như: một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng, chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả...
-Tài sản cố định thuê tài chính: là những tài sản mà DN thuê của Cty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Mọi hợp đồng thuê tài sản cố định nếu không thoả mãn các quy định về thuê tài chính đều là tài sản cố định thuê hoạt động.
- Đầu tư tài chính dài hạn: Đầu tư tài chính là tiền vốn của doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh ở bên ngoài hoạt động của doanh nghiệp mục đích hưởng lãi hoặc chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp khác. Đầu tư tài chính có thể là: cổ phiếu; trái phiếu các loại; vốn góp liên doanh; tài sản, đất đai cho thuê ngoài; tiền vốn cho vay v.v...
- Tài sản cố định dở dang: là các TSCĐ hữu hình hoặc vô hình đang trong quá trình hình thành, hiện chưa sử dụng và được xếp vào mục chi phí xây dựng cơ bản dở dang.
Ngoài ra, những khoản ký quỹ, ký cược dài hạn mà doanh nghiệp thực hiện cũng được xếp vào TSCĐ.
40.Tài sản hữu hình (Tangible asset)
Đây là tài sản thực hay tài sản cá nhân, như nhà cửa, máy móc, bất động sản. Tài sản hữu hình khác với các loại tài sản vô hình như nhãn hiệu, bản quyền, uy tín của công ty, các tài nguyên thiên nhiên (rừng, mỏ than, mỏ dầu). Trong kế toán, mặc dù tài sản hữu hình và tài sản vô hình được liệt kê riêng rẽ trong bản cân đối, các khoản phải thu vẫn được tính vào tài khoản hữu hình. Các tài sản thực sẽ bị mất dần giá trị qua thời gian sử dụng, trong khi tài sản vô hình bị khấu hao dần. Các quy tắc kế toán chưa thực sự rõ ràng trong việc phân biệt cụ thể tài sản vô hình và hữu hình. Nhìn chung, những tài sản nào không hội đủ điều kiện của tài sản vô hình sẽ được liệt kê là tài sản hữu hình.
Với một doanh nghiệp, tài sản hữu hình bao gồm: nhà xưởng, máy móc, tài chính và cơ sở hạ tầng. Tài sản vô hình bao gồm danh tiếng, tinh thần và văn hóa ứng xử của đội ngũ nhân lực, bí quyết kinh doanh và bí quyết kỹ thuật, sáng chế, giải pháp kỹ thuật, kiểu dáng công nghệ, nhãn hiệu hàng hóa và các thành quả vô hình khác. Trải qua nhiều thế kỷ, tài sản hữu hình vốn được coi là thước đo giá trị và tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, cách hiểu này đã thay đổi đáng kể trong vài thập kỷ gần đây. Tài sản vô hình đang trở thành yếu tố quyết định giá trị của doanh nghiệp.