Mỗi tuần một chuyên đề

Thuật ngữ tài chính kế toán

  • Thread starter MrGoogle
  • Ngày gửi
M

MrGoogle

Sơ cấp
11/8/10
6
0
0
Hà nội
Hi mọi người!
Em hàng ngày thường xuyên sử dụng chương trình kế toán để làm việc. Nhưng đôi khi một số khái niệm cơ bản lại quyên khuấy mất, thành ra lúc định khoản cũng hay sai sót. Chính vì thế em đã sưu tầm một số thuật ngữ. Hy vọng có thể giúp ích gì đó cho moi người!
Thông tin này em sưu tầm từ Phần mềm kế toán 1C:KẾ TOÁN 8 | Công ty 1VS (không biết có vi phạm bản quyền hay không:004:)
Thuật ngữ tài chính kế toán
1.Bảng cân đối kế toán (Balance sheet)
2.Báo cáo số dư (Account Statement)
3.Báo cáo tài chính (Financial statement)
4.Các khoản đầu tư dài hạn (Long-Term Investments)
5.Các khoản đầu tư ngắn hạn (Short-Term Investments)
6.Các khoản phải thu (Receivables)
7.Chi phí bán hàng (Selling expenses)
8.Chi phí hoạt động (Operating expenses/ operating costs)
9.Chi phí khác (Miscellaneous expenses)
10.Chi phí quản lí (Administrative expense)
11.Chi phí sản xuất (Manufacturing expense/manufacturing cost)
12.Chi phí tài chính
13.Chiết khấu thương phiếu (Commercial Paper Discounting)
14.Chu kỳ kinh doanh
15.Điểm hòa vốn
16.Doanh thu (Revenues)
17.Dòng tiền
18.Dòng tiền chiết khấu
19.Đối chiếu tài khoản
20.Giá trị gia tăng (Value Added)
21.Giao dịch
22.Hàng hóa tài chính (Financial commodities)
23.Hàng hóa vật tư sản xuất (Commodities)
24.Hàng tồn kho (Inventory)
25.Kế toán (Accounting)
26.Kết quả kinh doanh sau thuế (Bottom line)
27.Khấu hao (Depreciation)
28.Khoản phải trả (Accounts Payable - AP)
29.Kiểm toán (Audit; Auditing)
30.Kinh tế học vi mô (Microeconomics)
31.Lợi nhuận (Profit)
32.Lợi nhuận sau thuế (Net Profit After Taxes; NPAT)
33.Nợ ngắn hạn (Current liabilities)
34.Phương pháp kế toán phát sinh (Accrual Accounting)
35.Sổ cái kế toán (Ledger)
36.Số dư tài khoản (Account balance)
37.Tài chính doanh nghiệp (Corporate finance)
38.Tài sản(Asset)
39.Tài sản cố định (Fixed assets)
40.Tài sản hữu hình (Tangible asset)
41.Tài sản vô hình (Intangible asset)
42.Tài sản vốn (Capital Asset)
43.Thuế (Taxation)
44.Thuyết minh báo cáo tài chính (Notes to the financial statements)
45.Tiền (Money)
46.Tiền gửi ngân hàng (Bank Deposit; Deposit)
47.Tiền mặt (Cash)
48.Tín dụng
49.Vốn (Capital)
50.Vốn lưu động (Working Capital)
51.Vốn cố định (Fixed capital)
52.Vốn chủ sở hữu (Equity)
 
Sửa lần cuối:
Khóa học Quản trị dòng tiền
M

MrGoogle

Sơ cấp
11/8/10
6
0
0
Hà nội
1.Bảng cân đối kế toán (Balance sheet)
Báo cáo tài chính là một hệ thống các số liệu và phân tích cho ta biết tình hình tài sản và nguồn vốn, luồng tiền và hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Báo cáo tài chính có 4 loại: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính. Trong đó Bảng cân đối kế toán hay còn gọi là báo cáo tình hình hay báo cáo vị thế tài chính, cho biết tình trạng tài sản của công ty, nợ và vốn cổ đông vào một thời điểm ấn định, thường là lúc cuối tháng. Đây là một cách để xem xét một công ty kinh doanh dưới dạng một khối vốn (tài sản) được bố trí dựa trên nguồn của vốn đó (nợ và vốn cổ đông). Tài sản tương đương với nợ và vốn cổ đông nên bản cân đối tài khoản là bản liệt kê các hạng mục sao cho hai bên đều bằng nhau. Không giống với bản báo cáo kết quả kinh doanh là bản cho biết kết quả của các hoạt động trong một khoảng thời gian, bản cân đối kế toán cho biết tình trạng các sự kiện kinh doanh tại một thời điểm nhất định. Nó là một ảnh chụp (tĩnh) chứ không phải là một cuốn phim (động) và phải được phân tích dựa trên sự so sánh với các bản cân đối kế toán trước đây và các báo cáo hoạt động khác.
Bảng cân đối kế toán có vai trò hết sức quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, không những phản ánh vừa khái quát vừa chi tiết tình trạng tài sản và vốn của doanh nghiệp mà còn là minh chứng thuyết phục cho một dự án vay vốn khi doanh nghiệp trình lên ngân hàng, và đồng thời cũng là căn cứ đáng tin cậy để các đối tác xem xét khi muốn hợp tác với doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán có những đặc điểm chủ yếu sau đây :
- Các chỉ tiêu được biểu hiện dưới hình thái giá trị (tiền) nên có thể tổng hợp được toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp đang tồn tại dưới các hình thái (cả vật chất và tiền tệ, cả vô hình lẫn hữu hình) .
- BCĐKT được chia thành 2 phần theo 2 cách phản ánh tài sản là cấu thành tài sản và nguồn hình thành nên tài sản. Do vậy, số tổng cộng của 2 phần luôn bằng nhau.
- BCĐKT phản ánh vốn và nguồn vốn tại một thời điểm nhất định. Thời điểm đó thường là ngày cuối cùng của kỳ hạch toán. Chúng ta có thể xem kết cấu khái quát của bảng cân đối kế toán theo mẫu dưới đây:
Phần tài sản Nội dung
Loại A Số dư nợ tài khoản loại 1 và loại 3
Loại B Số dư nợ tài khoản loại 2 ( nếu dư có ghi âm )
Tổng cộng tài sản Cộng loại A và B
Phần nguồn vốn
Loại A Số dư có tài khoản loại 3 và loại 1
Loại B Số dư tài khoản loại 4 ( nếu dư nợ ghi âm )
Tổng cộng nguồn vốn Cộng loại A và B
Chỉ tiêu ngoài bảng

2.Báo cáo số dư (Account Statement)
Báo cáo số dư là bản tóm tắt tất cả các hoạt động giao dịch diễn ra trong một giai đoạn kế toán, thường là hàng tháng, nhưng đôi khi là hàng quý, hay hàng năm.
1. Trong lĩnh vực ngân hàng: Bản liệt kê số tiền gửi, số tiền rút, tiền trả bằng séc, lãi thu được và phí dịch vụ của một tài khoản được gọi là bản báo cáo của ngân hàng. Nó được ra hàng tháng theo quy định của cục Dự trữ Liên bang, nhằm giúp khách hàng xem lại các bản ghi tài chính của mình và sửa lỗi (nếu có). Báo cáo số dư cho khách hàng có thể được chuyển qua thư, hoặc email (nếu khách hàng yêu cầu).
2. Trong chứng khoán: bản tổng hợp tất cả những giao dịch và vị thế giao dịch (mua và bán) giữa nhà môi giới và một khách hàng. Báo cáo của các nhà môi giới có thể ra hàng tháng hay hàng quý, tùy thuộc vào mức độ hoạt động của tài khoản.

3.Báo cáo tài chính (Financial statement)
Báo cáo tài chính là các bản ghi chính thức về tình hình các hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Các báo cáo tài chính cung cấp một cái nhìn tổng thể về điều kiện tài chính của doanh nghiệp trong cả ngắn hạn và dài hạn. Có 4 loại báo cáo tài chính cơ bản. 1. Bảng cân đối kế toán: Báo cáo về tài sản và nợ của công ty trong một thời điểm xác định. 2. Báo cáo thu nhập: còn gọi là Báo cáo lợi nhuận và lỗ, phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì. 3. Báo cáo lợi nhuận giữ lại: Giải thích các thay đổi trong lợi nhuận giữ lại trong một thời kì. 4. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Báo cáo về các hoạt động dòng tiền của một công ty, đặc biệt là các hoạt dộng đầu tư, cấp vốn... Đối với các công ty lớn, những báo cáo này thường phức tạp và có thể gồm cả Thuyết minh báo cáo tài chính (Notes to the financial statements) và các thảo luận và phân tích của đội ngũ quản lí. Thuyết minh thường mô tả các khoản mục thên Bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập và báo cáo lưu chuyển tiền tệ một cách chi tiết hơn. Thuyết minh báo cáo tài chính được coi là một phần không thể thiếu của các báo cáo tài chính.

4.Các khoản đầu tư dài hạn (Long-Term Investments)
Các khoản đầu tư dài hạn là một tài khoản nằm bên phần tài sản trên bảng cân đối kế toán của một công ty, nó thể các khoản đầu tư mà một công ty có ý định thực hiện trong khoảng thời gian từ hơn 1 năm trở lên. Chúng có thể bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản và tiền mặt.
Điểm khác nhau cơ bản giữa tài khoản các khoản đầu tư dài hạn với tài khoản các khoản đầu tư ngắn hạn là các khoản đầu tư ngắn hạn có thể dễ dàng được bán đi trong khi các khoản đầu tư dài hạn thì không thể.
Dạng thường thấy nhất của việc đầu tư dài hạn đó là khi công ty A đầu tư một phần khá lớn vào công ty B và nắm giữ vị một vị thế ảnh hưởng quan trọng trong công ty B nhưng không sở hữu nhiều cổ phần có quyền biểu quyết. Trong trường hợp này, giá mua có thể được thể hiện như một khoản đầu tư dài hạn.

5.Các khoản đầu tư ngắn hạn (Short-Term Investments)
Các khoản đầu tư ngắn hạn là một tài khoản thuộc phần tài sản ngắn hạn nằm trên bảng cân đối kế toán của một công ty. Tài khoản này bao gồm bất cứ khoản đầu tư nào mà một công ty thực hiện với thời gian dưới 1 năm. Các tài khoản như thế này thường gồm: cổ phiếu, trái phiếu và các tài sản có tính thanh khoản tương đối nhanh.
Hầu hết các công ty có vị thế tiền mặt mạnh đều có tài khoản các khoản đầu tư ngắn hạn trên bảng cân đối kế toán. Điều này có nghĩa là một công ty có thể đủ sức đầu tư thặng dư tiền mặt vào cổ phiếu và trái phiếu để tìm kiếm được lợi nhuận cao hơn so với việc đem tiền mặt thặng dư đi gửi tiết kiệm.
Microsoft là một ví dụ. Microsoft luôn luôn ở trong một vị thế tiền mặt mạnh, tổng cộng các khoản đầu tư ngắn hạn xấp xỉ $32 tỷ vào cuối năm 2005.

6.Các khoản phải thu (Receivables)
Là một loại tài sản của công ty tính dựa trên tất cả các khoản nợ, các giao dịch chưa thanh toán hoặc bất cứ nghĩa vụ tiền tệ nào mà các con nợ hay khách hàng chưa thanh toán cho công ty. Phải thu được kế toán của công ty ghi lại và phản ánh trên bảng cân đối kế toán, bao gồm tất cả các khoản nợ công ty chưa đòi được, tính cả các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán.
Các khoản phải thu được ghi nhận như là tài sản của công ty vì chúng phản ánh các khoản tiền sẽ được thanh toán trong tương lai. Các khoản phải thu dài hạn (chỉ đáo hạn sau một khoản thời gian tương đối dài) sẽ được ghi nhận là tài sản dài hạn trên bảng cân đối kế toán. Hầu hết các khoản phải thu ngắn hạn được coi như là một phần của tài sản vãng lai của công ty.
Trong kế toán, nếu các khoản nợ này được trả trong thời hạn dưới 1 năm (hoặc trong một chu kỳ hoạt động kinh doanh) thì được xếp vào loại tài sản vãng lai. Nếu hơn 1 năm hoặc hơn 1 chu kỳ kinh doanh thì không phải là tài sản vãng lai. Phải thu còn được phân chia cụ thể hơn trong bảng cân đối kế toán thành phải thu thương mại (trade) và phi thương mại (nontrade).
Phải thu thương mại xuất phát từ việc cung cấp hàng hoá-dịch vụ của công ty cho khách hàng trong kỳ kinh doanh bình thường. Phải thu thương mại có thể là tài khoản phải thu (accounts receivables) hoặc phải thu tiền mặt (notes receivables). Phải thu phi thương mại xuất phát từ các loại giao dịch khác các loại kể trên và cũng có thể là phiếu nhận nợ của bên mua. Ví dụ như các khoản tạm ứng cho nhân viên; các khoản hoàn lại như hoàn thuế, tiền bồi thường bảo hiểm, tiền đặt cọc; và các khoản phải thu tài chính như tiền lãi, cổ tức, v.v.

7.Chi phí bán hàng (Selling expenses)
Trong kế toán, chi phí bán hàng là chi phí phát sinh trong quá trình bán hàng hay để bán được hàng (chi phí quảng cáo, trả hoa hồng bán hàng...) hoặc chi phí phân phối. Chi phí bán hàng là một trong những dạng của chi phí hoạt động và là chi phí phải chi thường xuyên.

8.Chi phí hoạt động (Operating expenses/ operating costs)
Chi phí hoạt động đối với các công ty buôn bán là những chi phí xảy ra trong quá trình hoạt động bình thường của công ty, không phải là chi phí của hàng bán. Thông thường, chi phí hoạt động thường là chi phí bán hàng hoặc chi phí quản lí. Ví dụ, một công ty có thể phải trả tiền thuê văn phòng, tiền thuế, và bảo hiểm cho cả mục đích bán hàng và quản lí. Các chi phí dành cho cả bán hàng và quản lí phải được phân tích và phân chia theo tỉ lệ giữa hai mục đích này trên báo cáo thu nhập.
Một trong những trách nhiệm chính mà đội ngũ quản lí phải giải quyết đó là xác định xem nên tiết kiệm chi phí hoạt động đến mức nào để không làm ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của công ty so với đối thủ.
Ví dụ, chi phí tiền lương và các quỹ phân bổ cho nghiên cứu và phát triển là chi phí hoạt động. Với mục đích tăng giá hoặc tìm thị trường mới cho sản phẩm nhằm tăng lợi nhuận, một vài doanh nghiệp còn sử dụng biện pháp cắt giảm chi phí.
Sa thải nhân viên và sản xuất ra sản phẩm chất lượng thấp ban đầu có thể làm tăng lợi nhuận và có thể là cần thiết trong trường hợp công ty đã bị mất năng lực cạnh tranh, nhưng cũng có rất nhiều loại chi phí thuộc chi phí hoạt động mà đội ngũ quản lí có thể cắt giảm trước khi chất lượng hoạt động của doanh nghiệp bị xuống cấp

9.Chi phí khác (Miscellaneous expenses)

Trong kế toán, chi phí phát sinh ngoài dự kiến trong kinh doanh, không được xếp vào chi phí sản xuất, chi phí bán hàng, hoặc chi phí quản lí và chi phí chung. Chi phí khác được đưa vào báo cáo thu nhập sau doanh thu hoạt động. Chi phí khác thường gây ra mất hơn là lợi ích nhận được.

10.Chi phí quản lí (Administrative expense)

Chi phí quản lí là chi phí xảy ra trong quá trình quản lí chung của doanh nghiệp. Ví dụ bao gồm lương quản lí, tiền thuê văn phòng và trang thiết bị cho đội ngũ quản lí, chi phí bảo hiểm, các dịch vụ được sử dụng cho đội ngũ quản lí, trang thiết bị mất giá. Ví dụ, trang thiết bị mất giá 1000 đôla, trong đó 60% liên quan đến bán hàng và 40% liên quan đến quản lí tính theo mét vuông hoặc tính theo lượng nhân viên, thì báo cáo thu nhập sẽ phát biểu rằng 600 đôla là chi phí bán hàng và 400 đôla là chi phí quản lí.
 
M

MrGoogle

Sơ cấp
11/8/10
6
0
0
Hà nội
11.Chi phí sản xuất (Manufacturing expense/manufacturing cost)
Trong kế toán, chi phí sản xuất là chi phí của công ty sản xuất trong quá trình làm ra sản phẩm, bao gồm nguyên vật liệu trực tiếp, lao động trực tiếp, và toàn bộ chi phí cho nhà máy. Ví dụ, trong quá trình sản xuất ôtô, nếu nguyên vật liệu trực tiếp là 2000 đôla, chi phí trả công lao động trực tiếp là 3000 đôla, và chi phí cho nhà máy (điện, nước...) là 1500 đôla, thì tổng chi phí sản xuất là 6500 đôla.

12.Chi phí tài chính

Là những khoản phí mà người đi vay phải trả khi họ vay tiền từ ngân hàng hay một tổ chức tín dụng. Chi phí tài chính không chỉ bao gồm lãi suất khoản vay, mà còn bao gồm các khoản phí khác như phí giao dịch, phí hoa hồng, phí thanh toán chậm, phí hàng năm như phí thẻ tín dụng hàng năm, và phí tín dụng bảo hiểm hàng năm trong trường hợp người cho vay yêu cầu có bảo hiểm trước khi quyết định cho vay.

13.Chiết khấu thương phiếu (Commercial Paper Discounting)
Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại, thực hiện bằng việc ngân hàng mua lại thương phiếu chưa đáo hạn của khách hàng. Đặc điểm của nghiệp vụ tín dụng này là khoản lãi phải trả ngay khi nhận vốn. Do đó, khoản lợi tức này sẽ được khấu trừ ngay tại thời điểm chiết khấu.
* Ý nghĩa của Chiết khẩu thương phiếu
1/ Đối với người sở hữu thương phiếu:
Giúp cho họ có tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán, biến các thương phiếu chưa đến hạn thanh toán trở thành các phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán.
2/ Đối với ngân hàng:
Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ tín dụng có đảm bảo mà tài sản đảm bảo là các tài sản có tính thanh khoản cao. Vì vậy, nghiệp vụ này vừa tạo ra tài sản sinh lời cho ngân hàng vừa tạo ra một lực lượng dự trữ để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán.

14.Chu kỳ kinh doanh

Chu kỳ kinh doanh (hay còn gọi là chu kỳ kinh tế) là sự biến động của GDP thực tế.
Trước đây sự biến động này diễn ra theo trình tự bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng hoảng, phục hồi, và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu điều, thất nghiệp lan tràn, các nhà máy đóng cửa hàng loạt,v.v... không xảy ra nữa. Vì thế toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái.

15.Doanh thu (Revenues)
Doanh thu: Là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
Bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh: Là một bộ phận có thể phân biệt được của một doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ riêng lẻ, một nhóm các sản phẩm hoặc các dịch vụ có liên quan mà bộ phận này có rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ phận kinh doanh khác. Các nhân tố cần xem xét để xác định sản phẩm và dịch vụ có liên quan hay không, gồm:
a) Tính chất của hàng hóa và dịch vụ;
b) Tính chất của quy trình sản xuất;
c) Kiểu hoặc nhóm khách hàng sử dụng các sản phẩm hoặc dịch vụ;
d) Phương pháp được sử dụng để phân phối sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ;
e) Điều kiện của môi trường pháp lý như hoạt động ngân hàng, bảo hiểm hoặc dịch vụ công cộng.
Bộ phận theo khu vực địa lý: Là một bộ phận có thể phân biệt được của một doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ trong phạm vi một môi trường kinh tế cụ thể mà bộ phận này có rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ phận kinh doanh trong các môi trường kinh tế khác. Các nhân tố cần xem xét để xác định bộ phận theo khu vực địa lý, gồm:
a) Tính tương đồng của các điều kiện kinh tế và chính trị;
b) Mối quan hệ của những hoạt động trong các khu vực địa lý khác nhau;
c) Tính tương đồng của hoạt động kinh doanh;
d) Rủi ro đặc biệt có liên quan đến hoạt động trong một khu vực địa lý cụ thể;
e) Các quy định về kiểm soát ngoại hối; và
f) Các rủi ro về tiền tệ.
Doanh thu bộ phận: Là doanh thu trình bày trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tính trực tiếp hoặc phân bổ cho bộ phận, bao gồm doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ ra bên ngoài và doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ cho bộ phận khác của doanh nghiệp.

Doanh thu bộ phận không bao gồm:
(i) Thu nhập khác;
(ii) Doanh thu từ tiền lãi hoặc cổ tức, kể cả tiền lãi thu được trên các khoản ứng trước hoặc các khoản tiền cho các bộ phận khác vay, trừ khi hoạt động của bộ phận chủ yếu là hoạt động tài chính; hoặc
(iii) Lãi từ việc bán các khoản đầu tư hoặc lãi từ việc xoá nợ trừ khi hoạt động của bộ phận đó chủ yếu là hoạt động tài chính.
Doanh thu của bộ phận bao gồm cả phần lãi hoặc lỗ do đầu tư vào công ty liên kết, công ty liên doanh hoặc các khoản đầu tư tài chính khác được hạch toán theo phương pháp vốn chủ sở hữu khi các khoản doanh thu đó nằm trong doanh thu hợp nhất của tập đoàn.

16.Dòng tiền
Dòng tiền là một thuật ngữ kế toán dùng để chỉ số tiền mà một công ty nhận được hoặc phải chi ra trong một khoảng thời gian xác định, hoặc trong một dự án nhất định. Việc tính toán dòng tiền có thể được sử dụng vào các mục đích:
Đánh giá tình trạng kinh doanh của một doanh nghiệp hay một dự án
Đánh giá vấn đề với khả năng thanh khoản, bởi vì có lãi không có nghĩa là có khả năng thanh khoản tốt. Một công ty làm ăn có lãi nhưng thiếu tiền mặt thì hoàn toàn có thể phá sản.
Để tính toán tỉ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROR). Các dòng doanh thu và chi phí được sử dụng như đầu vào cho các mô hình phân tích tài chính như IRR hay NPV.
Để kiểm tra thu nhập hay tăng trưởng của một doanh nghiệp khi người ta cho rằng số liệu kế toán không phản ánh chính xác thực tế kinh doanh của doanh nghiệp.
Dòng tiền có thể được phân ra làm 3 loại chính:
Dòng tiền hoạt động, tính toán trên kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu của một doanh nghiệp. Đây cũng là dòng tiền được các nhà đầu tư quan tâm nhất.
Dòng tiền đầu tư, tính trên các hoạt động sử dụng vốn, như đầu tư hay mua lại doanh nghiệp khác
Dòng tiền tài chính, tính trên các hoạt động tài chính như vay/trả nợ, phát hành hay mua lại cổ phiếu, thanh toán cổ tức...
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thống kê các dòng tiền của doanh nghiệp, (cash flow statement là một trong 3 báo cáo tài chính quan trọng nhất của doanh nghiệp. Báo cáo này được sử dụng để xác định mức độ bền vững trong ngắn hạn của doanh nghiệp. Nếu lượng tiền mặt tăng (dòng tiền hoạt động dương) thì nó sẽ làm tăng tính thanh khoản cho công ty, sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu về tiền mặt. Thông tin này chỉ có trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ mà không hề xuất hiện trên báo cáo kết quả kinh doanh (Income statement) và bảng cân đối kế toán (balance sheet).
Nhiều nhà đầu tư không mấy tin tưởng vào các con số công bố trong báo cáo kết quả kinh doanh, thích sử dụng biện pháp phân tích dòng tiền để thay thế, vì các con số thì có thể được nhào nặn ra chứ dòng tiền thì không.

17.Dòng tiền chiết khấu
Dòng tiền chiết khấu (Discounted Cash Flow - DCF ).DCF là một cách thức để đánh giá mức độ hấp dẫn của một cơ hội đầu tư. Các nhà phân tích thường dùng phương thức này để quy dòng tiền tương lai của một dự án cụ thể về giá trị hiện tại từ đó đánh giá được mức độ khả thi của một dự án đầu tư. Nếu như dòng tiền tương lai sau khi qua chiết khấu có giá trị lớn hơn chi phí đầu tư hiện tại của dự án thì đây có thể sẽ là một cơ hội đầu tư tốt.
Có rất nhiều biến số ẩn chứa trong việc phân tích dòng tiền và dòng tiền chiết khấu. Tuy việc tính toán DCF là rất phức tạp song mục đích của việc phân tích DCF chỉ nhằm đánh giá lượng tiền mà nhà đầu tư có thể thu được từ một hoạt động đầu tư và từ đó điều chỉnh giá trị của tiền tệ theo thời gian.
Việc ứng dụng DCF mang lại nhiều tiện ích, tuy nhiên nó cũng có những sai sót nhất định. DCF chỉ đơn thuần là một công cụ tính toán, vì vậy không thể tránh được những sai lệch. Một sự thay đổi nhỏ trong yếu tố đầu vào có thể dẫn tới thay đổi lớn về trị giá của một công ty. Người ta thường cố gắng điều chỉnh dòng tiền đạt được một hạn mức nhất định.
Mọi người thường không hiểu được vì sao các nhà phân tích chứng khoán lại có thể định giá một công ty tương đối giống nhau hay tại sao mà mức giá họ dự đoán lại khác nhau nhiều đến thế. Câu trả lời đơn giản nằm ở chỗ họ sử dụng phương thức DCF như thế nào? Tuy nhiên nếu bạn là nhà đầu tư bạn không nhất thiết phải dựa trên nhận định của các chuyên gia phân tích. Bằng việc so sánh đối chiếu, sử dụng đúng công cụ, chính bạn cũng có thể định giá một công ty bằng phương pháp DCF. Nói một cách đơn giản thì phương pháp DCF nhằm tìm ra giá trị hiện tại của công ty dựa trên việc phân tích lượng tiền mà công ty đó có khả năng tạo ra trong tương lai. Ví dụ nếu ai đó yêu cầu bạn lựa chọn giữa việc nhận 100USD vào ngày hôm nay và nhận đúng số tiền đó sau 1năm. Chắc bạn sẽ chọn cách thứ nhất vì bạn biết rằng bạn có thể đầu tư và kiếm được hơn 100 USD sau 1 năm. Điều đó có nghĩa là số tiền mà bạn sẽ có trong tương lai sẽ trị giá bằng 100 USD ngày hôm nay - hay nói cách khác giá trị chiết khấu dòng tiền là 100 USD. Tính toán cho toàn bộ số tiền mà bạn kì vọng công ty sẽ tạo ra trong tương lai, bạn sẽ biết được giá trị hiện tại của công ty là bao nhiêu.
Với tư cách là một nhà đầu tư, bạn sẽ rất có lợi nếu sử dụng thành thạo phân tích DCF. Đối với những nhà đầu tư mới gia nhập sân chơi đây là công cụ để kiểm tra lại mức giá trên các bản báo cáo của người môi giới chứng khoán. Các phân tích DCF yêu cầu phải tính đến các nhân tố ảnh hưởng đến công ty như tốc độ tăng doanh thu trong tương lai, lợi nhuận biên...Ngoài ra cũng cần tính toán tỉ lệ chiết khấu, nhân tố phụ thuộc nhiều vào tỉ lệ lãi suất phi rủi ro, chi phí huy động vốn, và các rủi ro đối với cổ phiếu của công ty.Tất cả các nhân tố này sẽ cho bạn những nhận định đúng đắn về các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị cổ phiếu, và điều đó có nghĩa là bạn có thể tin tưởng răng mình đã trả đúng giá cho mỗi cổ phiếu mua về

18.Điểm hòa vốn
Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó Tổng doanh thu bằng Tổng chi phí. Hay nói cách khác thì tại điểm hòa vốn, doanh nghiệp bắt đầu thu được lợi nhuận.
Xác định điểm hòa vốn nhằm:
Thiết lập một mức giá hợp lý
Đạt mục tiêu hiệu quả nhất trong khi kết hợp giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Để xác định thu hút và phân bổ tài chính trong các chiến lược khác nhau trong doanh nghiệp.
Được sử dụng trong phân tích tính hiệu quả của dự án kinh doanh.
Công thức tính:
Q = FC / (Po - Vc)
Trong đó:
Q: Là sản lượng hòa vốn
Fc: Chi phí cố định
Vc: Chi phí biến đổi trên mỗi đơn vị sản phẩm.
Po: Giá sản phẩm.

Ví dụ: Doanh nghiệp A sản xuất bóng đèn, chi phí cố định là 10 000$. Chi phí biến đổi trên mỗi sản phẩm là 10$. Giá bán mỗi sản phẩm trên thị trường là 30$. Vậy doanh nghiệp đạt điểm hòa vốn tại mức sản lượng là:
Q = 10 000 / ( 30 - 10) = 5 000 ( bóng đèn)
Nhà quản lý phải quan tâm đến thời gian hoàn vốn: Sẽ mất bao lâu để một cuộc đầu tư cụ thể thu hồi lại số vốn đã bỏ ra. Chúng ta biết rằng cái máy ép nhựa được dự kiến tiết kiệm cho Công ty Amalgamated 18.000 USD mỗi năm. Để xác định thời gian hoàn vốn, hãy lấy tổng số tiền đầu tư chia cho khoản tiền tiết kiệm dự kiến hàng năm.
Trong trường hợp này, ta lấy 100.000 USD chia cho 18.000 USD bằng 5,56. Như vậy, cái máy ép nhựa sẽ mất 5,56 năm để hoàn vốn. Bảng 6-1 dưới đây minh họa theo từng năm các khoản tiền tiết kiệm hàng năm tích lũy được.
Chú ý rằng Công ty Amalgamated sẽ chưa thu được lợi ích của vụ đầu tư này trong hơn 5 năm. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu ước tính về vòng đời sản phẩm bị sai, và cái máy ép nhựa này chỉ dùng được bốn năm là hỏng? Cuộc đầu tư giờ đây có vẻ chẳng còn gì hấp dẫn, và chắc chắn là ít hấp dẫn hơn một vụ đầu tư có ROI tương tự nhưng thời gian hoàn vốn chỉ là 3 năm.
Là một công cụ phân tích, thời gian hoàn vốn chỉ cho bạn biết một điều: mất bao lâu để thu hồi lại số vốn đầu tư của bạn. Mặc dù công cụ này không hữu ích khi so sánh các phương án thực tế, nhưng một số nhà điều hành vẫn còn sử dụng nó.
Phân tích hòa vốn
Phân tích hòa vốn cho bạn biết bạn cần bán ra bao nhiêu đơn vị hàng hóa để lấy lại vốn đầu tư cố định. Nói cách khác, tại điểm nào bạn sẽ có sự cân đối dòng tiền do sản phẩm, dịch vụ mới mang lại. Với những thông tin có được, bạn có thể xem xét nhu cầu thị trường và thị phần của đối thủ cạnh tranh để xác định liệu mong muốn bán nhiều như vậy có thực tế không. Phân tích hòa vốn còn giúp bạn tính đến tác động của sự thay đổi giá và số lượng hàng hóa.
Đặc biệt hơn, tính toán hòa vốn giúp bạn quyết định mức sản lượng mà tại đó tổng khoản tiền thu được sau thuế từ một sản phẩm hay một khoản đầu tư trang trải được tổng chi phí cố định của nó. Nhưng trước khi thực hiện tính toán này, bạn cần hiểu một số khái niệm sau:
+ Định phí: Chi phí bỏ ra hầu như luôn cố định cho dù bạn có bán được bao nhiêu sản phẩm hay dịch vụ đi chăng nữa. Đó là những chi phí như bảo hiểm, lương nhân viên quản lý, các khoản thuê… Ví dụ, tiền thuê cơ sở sản xuất và chi phí bảo hiểm là như nhau cho dù công ty làm ra 10.000 hay 20.000 đơn vị hàng hóa.
+ Biến phí: Những chi phí này sẽ thay đổi tùy thuộc vào số lượng hàng hóa được sản xuất và bán ra, ví dụ như phí thiết bị, nhân công và nguyên liệu sản xuất. Bạn sản xuất ra càng nhiều hàng hóa thì bạn càng tốn nhiều chi phí.
+ Lãi biên tế: Là số tiền mà mỗi đơn vị hàng hóa bán được góp phần trang trải cho định phí. Nó được xác định bằng cách lấy doanh thu thuần của một đơn vị trừ đi biến phí (hay chi phí trực tiếp) trên mỗi đơn vị.
Với những khái niệm được định nghĩa trên đây, chúng ta có thể làm một phép tính để tìm ra đáp án cho biểu thức sau:
Lượng hòa vốn = Định phí/Lãi biên tế của đơn vị hàng hóa
Sau đây là cách làm.
Trước tiên, hãy tính lãi biên tế của đơn vị bằng cách lấy doanh thu thuần của mỗi đơn vị trừ đi các biến phí của mỗi đơn vị. Sau đó lấy tổng chi phí cố định (hay số tiền đầu tư) chia cho lãi biên tế của mỗi đơn vị. Kết quả phép chia này chính là lượng hòa vốn, tức là số lượng đơn vị hàng hóa phải bán để trang trải toàn bộ chi phí cố định.
Để thấy được sự phân tích hòa vốn trong thực tế, chúng ta hãy xem ví dụ máy ép nhựa được dùng để sản xuất giá treo cho Công ty Amalgamated. Chi phí máy ép nhựa này là 100.000 USD. Giả sử mỗi giá treo được sản xuất ra từ máy ép này được bán với giá 75 USD, và biến phí cho mỗi đơn vị sản phẩm sẽ là 22 USD.
Như vậy:
75 USD (Đơn giá) - 22 USD (Biến phí cho mỗi đơn vị) = 53 USD (Lãi biên tế cho mỗi đơn vị)
Do đó:
100.000 USD (Tổng đầu tư cần thiết) / 53 USD (Lãi biên tế cho mỗi đơn vị) = 1.887 giá treo
Phép tính trên cho ta thấy rằng Công ty Amalgamated phải bán 1.887 cái giá treo để hòa vốn đầu tư 100.000 USD.
Lúc này, công ty phải quyết định xem liệu có thể đạt được lượng hòa vốn này không. Liệu có thực tế khi trông đợi bán được 1.887 cái giá treo đó, và nếu được thì mất thời gian bao lâu?
Tính phức tạp của phân tích hòa vốn
Phân tích hòa vốn trong trường hợp giá treo trên đây là một tình huống đơn giản. Chúng ta đã giả sử rằng chi phí đó cố định hoặc biến động một cách rõ ràng, rằng chi phí và số dư trên mỗi đơn vị không thay đổi theo số lượng (nghĩa là giá bán của món hàng không thay đổi theo các mức sản lượng khác nhau). Tuy nhiên giả thiết này có thể không phù hợp trong thực tế. Chi phí thuê cơ sở cho một mức sản xuất nào đó có thể không đổi, nhưng nó sẽ tăng thêm 50% nếu bạn thuê cơ sở thứ hai để mở rộng sản xuất. Chi phí nhân công trên thực tế có thể gộp cả định phí và biến phí. Và khi bạn tung càng nhiều sản phẩm ra thị trường thì bạn cần có mức giá chiết khấu, đồng nghĩa với việc giảm lãi cho từng đơn vị hàng hóa. Bạn cần phải điều chỉnh tính toán hòa vốn cho phù hợp với thực tế phức tạp này.
Đòn bẩy hoạt động
Mục tiêu của mọi nhà quản lý không phải là hòa vốn mà là phát sinh lợi nhuận. Một khi bạn đã trang trải mọi chi phí cố định bằng lãi thu về từ nhiều thương vụ, mỗi thương vụ tiếp theo đều trực tiếp mang đến lợi nhuận. Như chúng ta đã quan sát ở trên:
Doanh thu thuần đơn vị sản phẩm - Biến phí đơn vị sản phẩm = Lãi thu về trên đơn vị sản phẩm
Nhìn qua bạn cũng có thể thấy rằng biến phí của đơn vị sản phẩm càng thấp thì lãi thu về lại càng cao. Chẳng hạn, trong một công ty dược, chi phí xuất ra và đóng gói một chai thuốc mới có thể dưới 1 USD. Tuy nhiên, nếu công ty có thể bán được mỗi chai lấy 100 USD, thì số tiền khổng lồ 99 USD góp vào lợi nhuận công ty nếu doanh thu đạt được ngoài điểm hòa vốn! Rắc rối là công ty dược có thể đã đầu tư trước 400 triệu USD chi phí cố định để phát triển sản phẩm nhằm tung chai đầu tiên ra thị trường. Công ty sẽ phải bán nhiều chai thuốc mới này để hòa vốn. Nhưng sau khi đã hòa vốn thì lợi nhuận có thể rất cao.
Mối quan hệ giữa định phí và biến phí thường được mô tả bằng thuật ngữ đòn bẩy hoạt động. Các công ty có định phí cao hơn biến phí là công ty có đòn bẩy hoạt động cao. Ví dụ như công ty dược trên đây nói chung là có đòn bẩy hoạt động cao.
Bây giờ hãy xem mặt ngược lại: đòn bẩy hoạt động thấp. Trong trường hợp này định phí thấp hơn so với tổng chi phí tạo ra mỗi đơn vị sản phẩm. Hãng luật là một ví dụ điển hình về doanh nghiệp có đòn bẩy hoạt động thấp. Hãng này có chi phí cố định và mức đầu tư vào trang thiết bị tối thiểu. Phần lớn chi phí là những khoản phí trả cho luật sư, tùy thuộc vào số giờ thực tế mà hãng phải thu từ khách hàng.
Đòn bẩy hoạt động là điều quan trọng khi công ty đi qua điểm hòa vốn, nhưng nó có thể gây tổn thất đáng kể nếu không bao giờ đạt được điểm hòa vốn. Nói cách khác, đòn bẩy hoạt động có tính rủi ro. Đó là lý do tại sao các nhà quản lý suy nghĩ nhiều về việc tìm cách cân bằng hợp lý giữa định phí và biến phí.

19.Đối chiếu tài khoản
Đối chiếu tài khoản là quá trình xem lại và điều chỉnh số dư trong sổ ghi sec cá nhân để khớp với báo cáo của ngân hàng. Số dư trong số ghi séc cá nhân của bạn, cộng séc chưa thanh toán, trừ đi phí ngân hàng, cộng với lãi suất (nếu có) cần khớp với số dư trong báo cáo của ngân hàng.

20. Giao dịch
Giao dịch tài chính là hoạt động làm thay đổi tình trạng tài chính của hai hay nhiều thực thể tài chính.
Mua bán:
Hình thức thường gặp nhất của giao dịch tài chính. Một món hàng được trao đổi với một món hàng khác hoặc được quy thành tiền. Giao dịch này làm cho lượng tiền của người mua giảm đi và người bán tăng lên.
Vay nợ:
Giao dịch phức tạp hơn một chút là giao dịch trong đó bên cho vay cung ứng một lượng tiền duy nhất có giá trị nào đó cho bên đi vay để đổi lấy nhiều lần trả nợ nhỏ từ phía bên đi vay cho bên vay theo thời gian, thường là theo lịch trình cố định. Tổng số các khoản hoàn trả nhỏ theo chu kỳ này thường là lớn hơn giá trị của khoản cho vay ban đầu. Số chênh lệch trong các khoản thanh toán đó là tiền lãi.
Cầm cố:
Cầm cố hay còn gọi là thế chấp, là sự kết hợp của mua bán và cho vay. Bên cho vay cung cấp một lượng tiền lớn cho bên đi vay để chi vào một mục đích cụ thể của việc mua bán một mặt hàng rất đắt tiền (thường là nhà đất). Như là một phần của giao dịch, bên đi vay thông thường là đồng ý giao lại mặt hàng đó (hay mặt hàng nào khác có giá trị cao) cho bên cho vay nếu khoản đã vay không được hoàn trả đúng kỳ hạn. Bảo đảm hoàn trả này được biết đến dưới tên gọi đồ ký quỹ.
 
M

MrGoogle

Sơ cấp
11/8/10
6
0
0
Hà nội
21.Giá trị gia tăng (Value Added)
Giá trị gia tăng là thuật ngữ dùng để chỉ giá trị tăng thêm được tạo ra ở mỗi giai đoạn nhất định của quá trình sản xuất thông qua hình ảnh của doanh nghiệp và marketing. Trong kinh tế học Tân cổ điển hiện đại, đặc biệt là kinh tế vi mô, giá trị gia tăng dùng để chỉ quá trình đóng góp của các nhân tố sản xuất như đất đai, lao động, hàng hóa tư bản vào quá trình tăng thêm giá trị của một sản phẩm và tương ứng với thu nhập có được của người chủ sở hữu những nhân tố này.
Các yếu tố của sản xuất cung cấp các dịch vụ làm tăng giá trên một đơn vị sản phẩm X tương ứng với chi phí trên một đơn vị của hàng hóa trung gian được sử dụng trong quá trình sản xuất ra sản phẩm X.
Các nhà kinh tế học sử dụng phương pháp tính giá trị gia tăng để tránh việc tính lặp đối với 1 đơn vị đầu vào. Tổng giá trị gia tăng ở các quá trình khác nhau bằng với giá trị của sản phẩm cuối cùng. Trong kinh tế học vi mô, giá trị gia tăng được tính đơn giản bằng cách lấy giá trị của đầu ra trừ đi giá trị của hàng hóa trung gian.
Ví dụ:
1. Một bát canh đậu phụ được người đầu bếp tạo ra bằng cách sử dụng xoong, chảo, lò nướng, 500 Yen đậu phụ và các nguyên liệu khác. Người đầu bếp và các dụng cụ của anh ta là các nhân tố của sản xuất, đậu phụ và và nguyên liệu khác là hàng hóa trung gian.
2. Đậu phụ được sản xuất từ đậu nành có giá trị là 200 Yen.
3. Đậu nành được trồng và thu hoạch trong năm. Giả sử 200 Yen là giá trị gia tăng của khu vực này.
Cách tính như sau:
1. Giá trị gia tăng của quá trình thứ 1 là 100 - 500 = 500
2. Giá trị gia tăng của quá trình thứ 2 là 500 - 200 = 300
3. Giá trị gia tăng của quá trình thứ 3 theo giả thiết là 200
Như vậy tổng giá trị gia tăng trong các quá trình là 1000 Yên, bằng với giá trị của sản phẩm cuối cùng là bát canh đậu phụ.

22..Hàng hóa tài chính (Financial commodities)
Mặc dù chúng ta thường không coi đồng đô la hay Yên hay trái phiếu Mỹ là hàng hoá, trên thực tế, chúng thực sự là các hàng hoá. Tiền chính là vật liệu thô của mỗi giao dịch, cả đối với giao dịch trong nước và quốc tế. Lãi suất tiền tệ sẽ là bao nhiêu trong mùa hè tới, hay đồng đô la sẽ bằng bao nhiêu đồng euro, là những vấn đề thu hút sự quan tâm của những người mà công việc kinh doanh của họ phụ thuộc vào nguồn cung tiền hoặc vào giá các vật liệu nhập khẩu. Họ sử dụng nghiệp vụ futures để phòng chống lại những thay đổi đột ngột trong lãi suất hoặc giá trị tiền tệ. Tuy nhiên, chính những người giao dịch có tổ chức, hiệp hội, chứ không phải người giaodịch đơn lẻ, thường thực hiện các giao dịch futures tài chính khối lượng lớn, cả trên thị trường futures và trong các giao dịch qua quầy, cá nhân.

23.Hàng hóa vật tư sản xuất (Commodities)
Cuộc sống ngày nay phụ thuộc vào vật liệu thô - các sản phẩm duy trì hoạt động của con người và hoạt động kinh doanh. Việc dự đoán các sản phẩm này đáng giá bao nhiêu sẽ là nhân tố kích hoạt thị trường futures. Hàng hoá trên thị trường thường là nguyên nhiên vật liệu thô làm vật tư cho sản xuất: lúa mì làm bánh mì, vàng bạc làm đồ trang sức, dầu để chế biến xăng, nhớt và hàng nghìn các sản phẩm khác. Phần lớn các nhà sản xuất và người sử dụng mua, bán các hàng hoá này trên thị trường tiền mặt, thường được biết đến dưới cái tên thị trường thanh toán ngay (cash market) do hàng hoá có giá tiền mặt sẽ phải được thanh toán ngay.

24.Hàng tồn kho (Inventory)
Hàng tồn kho bao gồm: * Nguyên liệu đầu vào * Hàng hoá đang trong quá trình sản xuất * Hàng hoá thành phẩm Tất cả những thứ này được coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ được đem ra bán. Nếu để tồn hàng tồn kho quá lâu thì sẽ làm ảnh hưởng không tốt tới quá trình kinh doanh, bởi vì doanh nghiệp sẽ phải tốn chi phí dự trữ, chi phí thanh lý hay cải tiến hàng bị lỗi thời, và thanh lý hàng hư hỏng. Tuy nhiên, việc không dự trữ đủ hàng tồn kho cũng là một rủi ro bởi vì doanh nghiệp có khả năng đánh mất những khoản doanh thu bán hàng tiền năng hoặc thị phần nếu sau này giá lên cao mà doanh nghiệp không còn hàng để bán. Trong kế toán để tính toán giá trị của hàng tồn kho người ta hay sử dụng hai phương pháp là LIFO (last in, first out)-vào sau tính trước; và FIFO (first in, first out)-vào trước tính trước.

25.Kế toán (Accounting)
Kế toán là một chức năng của doanh nghiệp, thường nằm trong bộ phận chức năng là Phòng hay Ban Kế toán. Các cơ quan hành chính và chính phủ cũng có, nhưng trong phạm vi tra cứu này, chúng ta chỉ đề cập tới chức năng kế toán ở doanh nghiệp. Kế toán được chia thành hai mảng quan trọng nhất là Kế toán Tài chính và Kế toán Quản trị (trước kia còn gọi là Kế toán Giá thành, mặc dù khái niệm này hẹp). Mặc dù cùng có tên là Kế toán nhưng chúng đóng vai trò hoàn toàn khác nhau. Thông thường nhận thức chung của xã hội về kế toán là ám chỉ Kế toán Tài chính. Nhiệm vụ chính của Kế toán tài chính là lưu giữ chứng từ, kiểm tra đối chiếu, ghi chép khoản mục và các bút toán đối với giao dịch liên quan tới tài chính doanh nghiệp, thực hiện các chức năng báo cáo. Các hành vi của kế toán tài chính thường được quản chế rất chặt chẽ bởi cả doanh nghiệp lẫn cơ quan hành pháp liên đới, ở Việt Nam là Bộ Tài chính. Đối với các công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam, các hành vi nghiệp vụ kế toán còn được Ủy ban chứng khoán và Trung tâm Giao dịch chứng khoán giám sát chặt chẽ. Các báo cáo kế toán quan trọng nhất bao gồm: 1. Bảng cân đối kế toán; 2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; 3. Báo cáo lưu chuyển tiền mặt Ngoài ra tùy theo Qui chế quản lý tài chính riêng biệt của từng công ty, Kế toán tài chính có thể còn cần chuẩn bị các loại báo cáo riêng: Báo cáo tình hình góp vốn cổ đông và thay đổi cổ đông; Báo cáo sử dụng tiền mặt; Báo cáo sử dụng nguồn quỹ; Báo cáo về tình hình đầu tư tài sản ngắn hạn và dài hạn; Báo cáo về tình hình sử dụng tài sản cố định; Báo cáo về tiến độ đầu tư các hạng mục xây dựng cơ bản lớn, v.v.. Người phụ trách Kế toán Tài chính thường giữ chức danh Kế toán trưởng. Kế toán Quản trị thực hiện một chức năng khác: Phân tích thông tin tài chính, sử dụng ý kiến chuyên gia để phục vụ Ban lãnh đạo doanh nghiệp ra các quyết định quản lý cao nhất. Một ví dụ là quyết định có nên tiếp tục sản xuất một mặt hàng chủ lực sau thời gian tập hợp các thông số thị trường và đo được hiệu quả của mặt hàng đó. Kế toán Quản trị cũng thường có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các thông số và ý kiến đối với đầu tư chiến lược. Người phụ trách Kế toán Quản trị cao nhất thường giữ chức danh Giám đốc tài chính. Kế toán nói chung có vai trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy quản lý doanh nghiệp vì các báo cáo dù là kế toán tài chính hay quản trị đều đưa ra các thông tin quan trọng, phản ánh bức tranh hoạt động kinh doanh, và rất nhạy cảm đối với lãnh đạo, nhân viên và cổ đông. Các báo cáo được lập theo chuẩn mực chung rất dễ quan sát và tìm hiểu thông tin. Các số liệu có thể so sánh các doanh nghiệp với nhau, với thị trường và với quốc tế, chỉ cần điều chỉnh một số điểm nhất định. Chính vì thế, kế toán còn được xem là "ngôn ngữ của kinh doanh". Kế toán còn là một môn học trong chương trình giảng dạy kinh tế và kinh doanh của các trường đại học-cao đẳng. Trong các trường học, bộ môn kế toán thường được chia thành nguyên lý kế toán và nghiệp vụ sâu về kế toán. Học sinh thường phàn nàn đây là môn học khô khan, tuy nhiên thực tế đây lại là môn học rất hữu ích và thú vị. Cảm giác khô khan chủ yếu là do cách dạy và cách học.

26.Kết quả kinh doanh sau thuế (Bottom line)
Kết luận, dòng cuối của một báo cáo tài chính của một giao dịch hoặc hoạt động kinh doanh của một công ty, tổ chức. Thuật ngữ này đề cập đến thu nhập ròng của các công ty (lợi nhuận hoặc lỗ ròng).

27.Khấu hao (Depreciation)
Khấu hao là một thuật ngữ sử dụng trong kế toán mô tả phương pháp phân bổ chi phí của tài sản cố định trong suốt thời gian sử dụng của nó, tương đương với mức hao mòn thông thường. Khấu hao thường xử dụng với các loại tài sản có thời gian sử dụng cố định, mất dần giá trị trong quá trình sử dụng.
Còn theo định nghĩa của chuẩn mực kế toán Việt Nam, khấu hao là sự phân bổ một cách có hệ thống giá trị phải khấu hao của tài sản cố định trong suốt thời gian sử dụng hữu ích tài sản đó. Trong hệ thống tài khoản, tài khoản khấu hao được xếp vào loại tài khoản điều chỉnh giảm trừ.
Việc khấu hao tài sản có tác động trực tiếp lên báo cáo tài chính, cụ thể là tới thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp và cá nhân. Tuy nhiên mức khấu hao vì mục đích kế toán nội bộ doanh nghiệp và khấu hao vì mục đích giảm thuế đôi khi lại rất khác nhau. Khấu hao không phải là một khoản chi thực tế bằng tiền mà chỉ được trích trên sổ sách cho nên nó không ảnh hưởng nhiều đến dòng tiền thực tế của doanh nghiệp ngoài việc nó tác động chút ít đến khoản thuế phải nộp.
Có nhiều phương pháp tính khấu hao khác nhau, nhưng tựu chung có thể qui về một số phương pháp phổ biến sau:
Khấu hao đường thẳng (straight line depreciation): mức khấu hao bằng nhau qua các năm
Khấu hao nhanh (accelerated depreciation): mức khấu hao những năm đầu cao, giảm dần về sau
Khấu hao theo công suất (activity depreciation): khấu hao dựa trên số sản phẩm sản xuất ra...

28.Khoản phải trả (Accounts Payable - AP)
Đây là một khoản mục kế toán thể hiện nghĩa vụ của doanh nghiêp phải trả toàn bộ số nợ ngắn hạn của mình cho các chủ nợ. Trong bảng cân đối kế toán, khoản phải trả được gọi là khoản nợ (liabilities) của doanh nghiệp. Cũng giống như tài sản, nợ của doanh nghiệp được chia làm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Nợ dài hạn là các khoản nợ và các nghĩa vụ về mặt tài chính khác mà doanh nghiệp phải trả sau một khoảng thời gian từ một năm trở lên kể từ ngày lập bảng cân đối kế toán. Nợ ngắn hạn là các khoản nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán trong khoảng thời gian từ 1 năm trở xuống. Nợ ngắn hạn bao gồm khoản phải trả (AP) và các khoản nợ dài hạn đến hạn trả.

AP đôi khi cũng được sử dụng làm tên gọi của phòng ban hoặc bộ phận chịu trách nhiệm thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp cho các nhà cung cấp hoặc các chủ nợ khác. AP là khoản nợ phải trả trong một thời hạn nhất định để tránh việc vỡ nợ. Trong tài chính doanh nghiệp, khoản phải trả đề cập đến các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp và ngân hàng.

Thuật ngữ AP không chỉ sử dụng giới hạn cho tài chính doanh nghiệp. Ở mức độ hộ gia đình chúng ta cũng sẽ phải chi trả các hoá đơn hàng hoá dịch vụ tiêu dùng hàng tháng. Ví dụ như tiền điện thoại, tiền ga, tiền nước. Mỗi công ty cung cấp dịch vụ sẽ cung cấp dịch vụ trước, hoá đơn thanh toán được gửi sau khi ta đã sử dụng. Mỗi khi có yêu cầu thanh toán các hoá đơn thì phải thanh toán ngay. Nếu cá nhân hoặc công ty mà không thanh toán hoá đơn của mình thì sẽ bị coi là vỡ nợ.

29.Kiểm toán (Audit; Auditing)
Hiện nay, ở Việt Nam và trên thế giới còn tồn tại rất nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm toán. Tuy nhiên quan niệm về kiểm toán được chấp nhận phổ biến hiện nay là: "Kiểm toán là quá trình các kiểm toán viên độc lập và có năng lực tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin được kiểm toán nhằm xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập."
Nguồn gốc ra đời của kiểm toán:
Có rất nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng kiểm toán ra đời vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công Nguyên, gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La-Mã cổ đại. Ở thời kỳ đầu, kiểm toán chỉ hình thành ở mức độ sơ khai, những người làm công việc kế toán đọc to lên những tài liệu kế toán cho một bên độc lập nghe và sau đó chứng thực. Vì vậy "Audit" (có nghĩa là kiểm toán) trong tiếng Anh có nguồn gốc từ Latinh "Audire" có nghĩa là nghe.
Các chức năng của kiểm toán
Chức năng kiểm tra và xác nhận hay còn gọi là chức năng xác minh.
Chức năng trình bày ý kiến ( chức năng tư vấn )
Đối tượng của kiểm toán : Báo cáo tài chính
Phân loại kiểm toán:
Căn cứ theo mục đích của kiểm toán
Kiểm toán hoạt động (Operation Audit) là loại kiểm toán nhắm xem xét và đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán.
Kiểm toán tuân thủ (Compliance) là loại kiểm toán nhằm xem xét đơn vị được kiểm toán có tuân thủ theo đúng các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ quan chức năng của nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không.
Kiểm toán Báo cáo tài chính (Audit of Financial Stetemants) là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác nhận về tính trung thực, hợp lý của các Báo cáo tài chính được kiểm toán.
Căn cứ theo chủ thể kiểm toán
Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nhà nước
Kiển toán độc lập

30.Kinh tế học vi mô (Microeconomics)
Kinh tế học vi mô là một nhánh (hay phần nội dung) đặc biệt quan trọng của kinh tế học, tập trung nghiên cứu hành vi và sự tác động qua lại của các thành phần bên trong nền kinh tế, bao gồm hai bộ phận trọng yếu là các hộ tiêu dùng (đại diện bởi các cá nhân) và các công ty. Nhánh kinh tế học vi mô làm rõ phương thức và xu hướng các cá nhân và công ty ra quyết định tiêu dùng, cạnh tranh, ra quyết định sản xuất, liên kết-hợp tác, đổi mới công nghệ. Đồng thời nó cũng nghiên cứu sự tác động qua lại giữa nhóm các cá nhân và các công ty với nhau. Như vậy, kinh tế học vi mô tập trung nghiên cứu các trạng thái và hành vi của các bộ phận đặc trưng của một nền kinh tế, cũng như xu hướng các bộ phận này tác động lẫn nhau, hình thành kết cục là trạng thái của chỉnh thể kinh tế.
 
M

MrGoogle

Sơ cấp
11/8/10
6
0
0
Hà nội
31.Lợi nhuận (Profit)
Thu nhập ròng có được do sản xuất hay bán được các hàng hóa và dịch vụ: nghĩa là, số tiền còn lại dành cho nhà doanh nghiệp sau khi thanh toán tất cả các khoản vốn (lãi suất), đất đai (tô), lao động (bao gồm chi phí quản lý, lương và tiền công), nguyên liệu thô, thuế và khấu hao. Nếu như doanh nghiệp làm ăn kém cỏi, lợi nhuận có thể là số âm, và trong trường hợp đó thì chúng biến thành các khoản lỗ

32.Lợi nhuận sau thuế (Net Profit After Taxes; NPAT)

Lợi nhuận sau thuế là khoản lợi nhuận chịu thuế sinh ra từ các loại hoạt động doanh nghiệp, bao gồm: sản xuất-kinh doanh, tài chính và đầu tư trừ đi khoản thuế thu nhập doanh nghiệp. Thông thường, người ta hay gọi tắt là "lợi nhuận" trên thực chất, lợi nhuận trước thuế cần được phân biệt rõ ràng. Lợi nhuận sau thuế có hai cách phân chia chính là chia cho cổ đông (thể hiện dưới dạng cổ tức) và lợi nhuận giữ lại ở doanh nghiệp để đầu tư, phát triển tiếp các chu kỳ kinh doanh sau này.

33.Nợ ngắn hạn (Current liabilities)
Một khoản nợ của công ty hay một nghĩa vụ nợ mà thường xác định trong khoảng thời gian 1 năm ( năm tài chính ). Tài sản nợ ngắn hạn trên bảng cân đối kế toán của công ty bao gồm những khoản nợ ngắn hạn, tài khoản có thể phải trả, các khoản nợ tích lũy và các loại khoản nợ khác.
Về bản chất, đó là những hóa đơn phải trả giữa người đi vay và người cho vay trong một khoảng thời gian ngắn. Thông thường, công ty dùng tiền mặt trong tài sản ngắn hạn để trả cho nợ ngắn hạn của họ.
Thông thường, các nhà phân tích hoặc những người cho vay sử dụng hệ số khả năng thanh toán nợ hiện tại, hoặc hệ số khả năng thanh toán nhanh để xác định khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của công ty.
Trong kế toán, thuật ngữ này được dùng để chỉ những khoản nợ của bảng cân đối kế toán trong cột ghi nợ. Nợ ngắn hạn thường phải trả trong khoảng một năm hoặc ít hơn ( ví dụ tiền lương, thuế.. ), trái với nợ dài hạn hoặc nợ cố định.

34.Phương pháp kế toán phát sinh (Accrual Accounting)

Phương pháp kế toán phát sinh là phương pháp kế toán ghi nhận hoạt động và vị thế của công ty thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong doanh nghiệp. Kế toán ghi nhận tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ dù nghiệp vụ ấy có giao dịch bằng tiền mặt hay không. Tính hợp lý của phương pháp này được giải thích qua nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí tại thời điểm giao dịch xảy ra hơn là tại thời điểm xảy ra sự thanh toán tiền giữa doanh nghiệp và người bán, người mua. Phương pháp này cũng cho phép các dòng tiền vào/ ra hiện tại có thể kết hợp với các dòng tiền vào/ ra trong tương lai nhằm đưa ra một bức tranh chính xác hơn về tình hình tài chính hiện tại của doanh nghiệp. Phương pháp kế toán phát sinh được xem là phương pháp thực hành kế toán tiêu chuẩn đối với hầu hết các doanh nghiệp. Phương pháp này cho thấy một bức tranh chính xác hơn về vị thế hiện tại của doanh nghiệp, khác với phương pháp kế toán tiền mặt chỉ ghi nhận giao dịch khi có giao dịch tiền mặt xảy ra. Càng ngày phương pháp này càng được ưa chuộng và thể hiện tính ưu việt hơn khi số lượng giao dịch của doanh nghiệp càng nhiều và càng phức tạp hơn. Nhu cầu sử dụng một phương pháp kế toán có thể phản ánh chính xác hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp trở nên cấp thiết. Việc bán hàng chịu cho khách hàng cũng như với các dự án mà các dòng doanh thu sẽ trải dài qua một thời gian chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính công ty tại thời điểm giao dịch. Do đó, những hoạt động như vậy nên được phản ánh trên các báo cáo tài chính trong cùng thời gian báo cáo mà những giao dịch này xảy ra. Ví dụ, khi doanh nghiệp bán Tivi cho khách hàng sử dụng thẻ tín dụng, phương pháp kế toán tiền mặt và kế toán phát sinh sẽ ghi nhận sự kiện này khác nhau. Doanh thu bán Tivi sẽ chỉ được ghi nhận chừng nào doanh nghiệp nhận được tiền do khách hàng trả. Do vậy, nếu Tivi được mua dựa trên thẻ tín dụng, doanh thu này có thể sẽ không được ghi nhận mãi cho đến tháng sau hoặc năm sau. Tuy nhiên với góc nhìn của phương pháp kế toán phát sinh thì ghi nhận như phương pháp kế toán tiền mặt sẽ không chính xác bởi vì tuy doanh nghiệp chưa nhận được tiền mặt nhưng nghiệp vụ bán hàng đã xảy ra và đã hoàn tất. Do vậy, phương pháp kế toán phát sinh sẽ ghi nhận doanh thu ngay tại thời điểm quyển sở hữu cái Tivi được chuyển sang cho khách hàng. Thậm chí ngay cả khi tiền mặt chưa chuyển vào tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp thì kế toán vẫn ghi nhận doanh thu trên tài khoản theo dõi “ các khoản phải thu”, và do đó vẫn phản ánh chính xác doanh thu hoạt động của doanh nghiệp

35.Sổ cái kế toán (Ledger)
Quyển sổ lưu giữ tất cả các hoạt động trong kinh doanh liên quan tới từng tài khoản kế toán nhất định. Trên thực tế, sổ cái là bản phân loại và tóm tắt các nghiệp vụ tài chính hàng ngày cho từng tài khoản kế toán và là cơ sở chuẩn bị để lên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh.

Sổ cái cũng cho phép đọc số dư trong một tài khoản nhất định tại một thời điểm cụ thể. Ví dụ, số dư tiền mặt cuối tháng có thể được xem để quyết định nếu công việc kinh doanh có rắc rối về tiền mặt. Ngoài ra nhìn vào tài khoản tiền mặt ta cũng có thể biết các khoản chi và tiêu tiền mặt trong một giai đoạn.

Trong thời đại máy tính, các hoạt động kinh doanh thường được lưu trữ trong băng từ hay đĩa thay vì trong sổ sách. Nhưng các nguyên tắc kế toán vẫn được giữ nguyên không thay đổi.

36.Số dư tài khoản (Account balance)
Nghiệp vụ kế toán lấy tài sản có trừ tài sản nợ thực hiện vào cuối mỗi kỳ báo cáo kế toán. Thuật ngữ được áp dụng với rất nhiều mối quan hệ trong kế toán, như với ngân hàng, các công ty thẻ tín dụng, các công ty môi giới và các cửa hàng, cũng như sự phân loại các giao dịch trong kế toán. Cùng một nghiệp vụ kế toán có thể là số dư tài sản có hoặc số dư tài sản nợ tùy thuộc bạn thuộc phía nào của giao dịch.

37.Tài chính doanh nghiệp (Corporate finance)
Tài chính doanh nghiệp là một lĩnh vực đặc biệt của ngành tài chính, liên quan đến việc đưa ra các quyết định về mặt tài chính của một doanh nghiệp, các công cụ cũng như phân tích được sử dụng để đưa ra các quyết định này. Mục đích chủ yếu của tài chính doanh nghiệp là nhằm nâng cao giá trị doanh nghiệp đồng thời tránh được các rủi ro đáng tiếc về mặt tài chính.
Các nguyên tắc đối với tài chính doanh nghiệp có thể chia dựa trên kĩ thuật sử dụng và quyết định đưa ra là dài hạn hay ngắn hạn. Các quyết định đầu tư vốn dài hạn dựa trên các lựa chọn dài hạn về dự án đầu tư, đầu tư theo phương thức góp cổ phần hay cho vay nợ, khi nào và liệu có nên trả cổ tức cho các cổ đông hay không? Các quyết định tài chính doanh nghiệp trong ngắn hạn thường được gọi là hoạt động quản lý vốn lưu động, chủ yếu giải quyết vấn đề cân đối nợ ngắn hạn và tài sản ngắn hạn, trọng tâm là quản lý tiền mặt, hàng tồn kho, vay ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Tài chính doanh nghiệp liên qua mật thiết với quản trị tài chính, khái niệm có nội hàm rộng hơn, bao gồm tất cả các kĩ thuật tài chính cho dù kĩ thuật này có đang được áp dụng tại các doanh nghiệp kinh doanh hay không.Tài chính doanh nghiệp quan tâm đến mọi mặt của hoạt động tài chính trong một doanh nghiệp, trong đó có các mối quan tâm chủ yếu sau:
Quyết định về vốn đầu tư
Đây thường là quyết định có tính chất dài hạn, liên quan đến các tài sản cố định hay cấu trúc vốn. Quyết định ở đây có thể dựa trên một vài chỉ tiêu có sự liên hệ với nhau. Thông thường, bộ phận quản lý phải tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp bằng cách đầu tư vào các vào dự án có NPV dương, với tỉ lệ chiết khấu hợp lý.
Đánh giá các cơ hội đầu tư
Thông thường, giá trị của một dự án được đánh giá thông qua phương pháp chiết khấu dòng tiền. Dự án nào có kết quả tốt nhất_thường được thể hiện qua NPV thì dự án đó sẽ được lựa chọn. Nhưng để làm được điều này công ty cần xác định được quy mô và thời điểm thu được tiền lãi từ dự án. Dòng tiền tương lai sau đó sẽ được chiết khấu để quy về giá trị hiện tại của nó, so sánh với chi phí bỏ ra để thực hiện, nếu tiền thu về lớn hơn thì dự án là khả thi, và công ty có thể tiến hành hoạt động đầu tư.
Quyết định đầu tư
Muốn ra một quyết định đầu tư yêu cầu cần phải đánh giá kĩ lưỡng và đúng đắn các cơ hội đầu tư, các dự án, hay nói cách khác là phải đi giải một bài toán có hàm số phức hợp của ba biến là khả năng, quy mô và thời gian thu được dòng tiền tương lai. Sau khi đã đánh giá cơ hội đầu tư, doanh nghiệp sẽ lựa chọn và đưa ra quyết định đầu tư. Lúc này các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ phải tính toán để phân bổ các nguồn lực hữu hạn sao cho có hiệu quả cao nhất.

38.Tài sản(Asset)
1. Một tài nguyên có giá trị kinh tế được một cá nhân, một tổ chức hay một quốc gia sở hữu hoặc quản lý với hy vọng thu được lợi nhuận từ chúng.
2. Một khoản trong bản cân đối đại diện cho những gì công ty sở hữu.
Theo Investopedia:
1. Tài sản được mua để tăng giá trị một công ty hoặc để tạo thuận lợi cho hoạt động của công ty. Có thể nghĩ về tài sản như một thứ có thể sản sinh ra lưu lượng tiền mặt, cho dù nó là trang thiết bị sản xuất của một công ty hay căn hộ cho thuê của một cá nhân.
2. Trong kế toán, tài sản có thể là tài sản ngắn hạn hoặc tài sản cố định. Ngắn hạn nghĩa là tài sản sẽ được tiêu thụ trong vòng 1 năm. Thông thường, chúng bao gồm: tiền mặt, các khoản phải thu, hàng trong kho. Tài sản cố định là những tài sản sẽ đem lại lợi ích trong vòng lâu hơn 1 năm, như trang thiết bị, nhà cửa, bất động sản,...

39.Tài sản cố định (Fixed assets)

Tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ kinh doanh (nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn hoăch bằng 1 năm)
Trên thực tế, khái niệm TSCĐ bao gồm những tài sản đang sử dụng, chưa được sử dụng hoặc không còn được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh do chúng đang trong quá trình hoàn thành (máy móc thiết bị đã mua nhưng chưa hoặc đang lắp đặt, nhà xưởng đang xây dựng chưa hoàn thành...) hoặc do chúng chưa hết giá trị sử dụng nhưng không được sử dụng. Những tài sản thuê tài chính mà doanh nghiệp sẽ sở hữu cũng thuộc về TSCĐ.
Đặc điểm của TSCĐ : tuổi thọ có thời gian sử dụng trên 1 năm, tức là TSCĐ sẽ tham gia vào nhiều niên độ kinh doanh và giá trị của nó được chuyển dần vào gíá trị sản phẩm làm ra thông qua khoản chi phí khấu hao. Điều này làm giá trị của TSCĐ giảm dần hàng năm. Tuy nhiên, không phải mọi tài sản có thời gian sử dụng trên một năm đều được gọi là TSCĐ, thực tế có những tài sản có tuổi thọ trên một năm nhưng vì giá trị nhỏ nên chúng không được coi là TSCĐ mà được xếp vào tài sản lưu động. Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính, một tài sản được gọi là TSCĐ khi có đặc điểm như đã nêu đồng thời phải có giá trị trên 10 triệu đồng.
Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm:
- Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định), thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như: nhà cửa, vật kiến trúc; máy móc, thiết bị; phương tiện vận tải; dụng cụ văn phòng...
-Tài sản cố định vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh như: một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng, chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả...
-Tài sản cố định thuê tài chính: là những tài sản mà DN thuê của Cty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Mọi hợp đồng thuê tài sản cố định nếu không thoả mãn các quy định về thuê tài chính đều là tài sản cố định thuê hoạt động.
- Đầu tư tài chính dài hạn: Đầu tư tài chính là tiền vốn của doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh ở bên ngoài hoạt động của doanh nghiệp mục đích hưởng lãi hoặc chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp khác. Đầu tư tài chính có thể là: cổ phiếu; trái phiếu các loại; vốn góp liên doanh; tài sản, đất đai cho thuê ngoài; tiền vốn cho vay v.v...
- Tài sản cố định dở dang: là các TSCĐ hữu hình hoặc vô hình đang trong quá trình hình thành, hiện chưa sử dụng và được xếp vào mục chi phí xây dựng cơ bản dở dang.
Ngoài ra, những khoản ký quỹ, ký cược dài hạn mà doanh nghiệp thực hiện cũng được xếp vào TSCĐ.

40.Tài sản hữu hình (Tangible asset)
Đây là tài sản thực hay tài sản cá nhân, như nhà cửa, máy móc, bất động sản. Tài sản hữu hình khác với các loại tài sản vô hình như nhãn hiệu, bản quyền, uy tín của công ty, các tài nguyên thiên nhiên (rừng, mỏ than, mỏ dầu). Trong kế toán, mặc dù tài sản hữu hình và tài sản vô hình được liệt kê riêng rẽ trong bản cân đối, các khoản phải thu vẫn được tính vào tài khoản hữu hình. Các tài sản thực sẽ bị mất dần giá trị qua thời gian sử dụng, trong khi tài sản vô hình bị khấu hao dần. Các quy tắc kế toán chưa thực sự rõ ràng trong việc phân biệt cụ thể tài sản vô hình và hữu hình. Nhìn chung, những tài sản nào không hội đủ điều kiện của tài sản vô hình sẽ được liệt kê là tài sản hữu hình.

Với một doanh nghiệp, tài sản hữu hình bao gồm: nhà xưởng, máy móc, tài chính và cơ sở hạ tầng. Tài sản vô hình bao gồm danh tiếng, tinh thần và văn hóa ứng xử của đội ngũ nhân lực, bí quyết kinh doanh và bí quyết kỹ thuật, sáng chế, giải pháp kỹ thuật, kiểu dáng công nghệ, nhãn hiệu hàng hóa và các thành quả vô hình khác. Trải qua nhiều thế kỷ, tài sản hữu hình vốn được coi là thước đo giá trị và tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, cách hiểu này đã thay đổi đáng kể trong vài thập kỷ gần đây. Tài sản vô hình đang trở thành yếu tố quyết định giá trị của doanh nghiệp.
 
M

MrGoogle

Sơ cấp
11/8/10
6
0
0
Hà nội
41.Tài sản vô hình (Intangible asset)
Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chất cụ thể. Ngày nay quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bản quyền, bí quyết kĩ thuật, thương hiệu, uy tín... là những tài sản vô hình phổ biến của doanh nghiệp. Có thể phân biệt được một cách rõ ràng một tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp hay không thì phụ thuộc vào các đặc tính của tài sản đó. Uy tín của công ty có thể coi là một tài sản không xác định vì nó luôn gắn liền với sự tồn tại của công ty chừng nào công ty còn tồn tại. Tuy nhiên nếu công ty kí kết hợp đồng sử dụng bằng phát minh sáng chế của một công ty khác và không có ý định kéo dài hiệu lực của hợp đồng thì công ty chỉ được sử dụng bằng phát minh sáng chế này trong một thời hạn xác định. Khi đó bằng phát minh sáng chế trở thành một tài sản vô hình của công ty. Mặc dù tài sản vô hình không có hình thái vật chất cụ thể như các trang thiết bị máy móc nhà xưởng khác của công ty nhưng nó lại rất có giá trị đối với công ty và có thể trở thành nhân tố quan trọng trong sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Ví dụ một công ty như Coca-Cola khó có thể đạt được vị trí như hiện tại nếu không có sự hỗ trợ tích cực của các nhãn hiệu. Nhãn hiệu này dù không có hình thái vật chất cụ thể để có thể cầm nắm được song nó lại được thừa nhận, được nhiều người biết đến, và có tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, làm tăng doanh số bán hàng trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế việc sở hữu một nhãn hiệu mạnh là điều rất có ý nghĩa đối với các công ty lớn như Coca-Cola.

42.Tài sản vốn (Capital Asset)
Đầu tư:
Một tài sản dài hạn không được mua hoặc bán theo diễn biến thông thường của công việc kinh doanh. Ví dụ như đất đai, các tòa nhà, máy móc,... Nhìn chung, đây là những tài sản không thể chuyển thành tiền mặt nhanh chóng.
Kinh doanh:
Tài sản với thời gian sử dụng khá dài, tài sản cố định trong một công việc buôn bán hay kinh doanh.
Kế toán:
Tài sản được phục vụ mục đích sản xuất trong thời gian dài chứ không phải để bán lại. Nó bao gồm các tài sản hữu hình như đất đai, các tòa nhà, cây cối, dụng cụ, khoáng sản, rừng cây lấy gỗ; các tài sản vô hình như: bằng sáng chế, goodwill (lợi thế thương mại), thương hiệu, các bất động sản cho thuê theo hợp đồng (leasehold); và các khoản đầu tư vào các công ty con.
Trong lĩnh vực thuế, đây là tài sản được sở hữu bởi người đóng thuế, không phải tiền mặt, tồn kho, hàng hóa để bán, các khoản phải thu và những tài sản vô hình nhất định.
Tài sản cố định thường bao gồm các tài sản hữu hình như cây cối, dụng cụ và các tài sản vô hình như bằng sáng chế.

43.Thuế (Taxation)
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc của con người (thông qua thể nhân, pháp nhân) cho Chính phủ được nhà nước quy định thông qua hệ thống pháp luật, được thực hiện mà không đề cập đến một lợi ích cụ thể đối với người đóng thuế. Thuế thường được đóng bằng tiền và thể hiện việc chịu từ bỏ sức mua một cách trực tiếp nhưng cũng có thể đóng thuế thông qua sức lao động, ngày công lao động, hiện vật như gạo muối, dầu mỏ, trà.... nhằm mục đích chuyển quyền kiểm soát các nguồn lực kinh tế từ ngồn lực kinh tế từ người nộp thuế sang người nhà nước để nhà nước sử dụng hay chuyển giao cho những người khác. Thuế có hai chức năng chính là phân phối lại và chức năng điều tiết các hoạt động kinh tế-xã hội. Sự ra đời của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng và sự xuất hiện của nhà nước.
Thuế quốc gia và thuế địa phương:
Do chính quyền gồm chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Các cấp chính quyền đều có ngân sách riêng, và được phân quyền các nhiệm vụ chi (cung ứng hàng hoá công cộng) riêng, nên có thuế quốc gia (nộp vào ngân sách trung ương), và thuế địa phương (nộp vào ngân sách chính quyền địa phương).
Thuế thông thường và thuế đặc biệt:
Thuế thông thường: là thuế nhằm các mục đích chính là thu ngân sách và điều tiết thu nhập, chứ không nhằm mục đích đặc biệt nào khác.
Thuế đặc biệt: là thuế nhằm mục đích đặc biệt, ví dụ thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào bia rượu, thuốc lá nhằm hạn chế cá nhân tiêu thụ các hàng hoá này, hay phí thuỷ lợi nhằm huy động tài chính cho phát triển, duy tu hệ thống thuỷ lợi địa phương.
Thuế phụ thu: Bên cạnh thuế chính thức còn có thuế phụ thu. Thuế này không nhằm điều tiết trực tiếp đối tượng thu mà chỉ lợi dụng đối tượng thu để huy động một nguồn tài chính phục vụ mục đích nào đó không nhất thiết liên quan đến đối tượng thu. Ví dụ chính phủ Pháp đánh thuế phụ thu đối với người đi máy bay ở Pháp ( thu thuế này khi họ mua vé máy bay) để có nguồn tài chính tài trợ cho hoạt động phòng chống dịch bệnh, nhất là HIV/AIDS, ở nước nghèo.

44.Thuyết minh báo cáo tài chính (Notes to the financial statements)

Thuyết minh báo cáo tài chính là những thông tin bổ sung được đưa trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Tuyết minh báo cáo tài chính đưa ra các chi tiết và thông tin thêm đã bị bỏ qua trong các báo cáo (4 loại báo cáo tài chính chính), như Bảng cân đối kế toán và Báo cáo thu nhập. Việc này được thực hiện với mục đích làm rõ báo cáo tài chính, thông thường do các thuyết minh này khá dài, vì vậy nếu chúng được đưa vào các báo cáo tài chính, chúng sẽ làm rối các báo cáo. Việc đọc thuyết minh là rất quan trọng đối với nhà đầu tư. Những thuyết minh này bao gồm các thông tin quan trọng như phương pháp kế toán được sử dụng để ghi chép và báo cáo các giao dịch, chi tiết kế hoạch trợ cấp, quyền chọn cổ phiếu, thông tin bồi thường thưởng phạt. Tất cả các thông tin này sẽ ảnh hưởng tới phần lợi nhuận hay cổ tức mà cổ đông được nhận khi đầu tư vào một công ty.

45.Tiền (Money)

Nói một cách chặt chẽ thì tiền chỉ là những gì mà luật pháp bắt buộc phải công nhận là một phương tiện thanh toán. Đó thường là các tờ giấy hay các đồng kim loại có ghi giá trị mà tất cả mọi người phải chấp nhận như là một phương tiện thanh toán và cũng được gọi là tiền mặt.
Người ta tin rằng đầu tiên hàng hóa và các dịch vụ được trao đổi trực tiếp với nhau. Vì điều này không thực dụng nên hàng hóa và dịch vụ được trao đổi với các loại hàng hóa khác mà có thể được tiếp tục trao đổi một cách dễ dàng. Đó là tiền. Vì nó có có thể đếm được, dễ bảo toàn, dễ vận chuyển, có giá trị bền vững và có thể bảo toàn dễ dàng.
Nếu một người có tiền thì có thể dùng tiền để làm những việc sau đây:
Tiêu tiền (tiêu thụ, phương tiện thanh toán)
Gửi tiền để lấy tiền lãi (đầu tư)
Đổi lấy một loại tiền tệ khác (trao đổi)
Trữ tiền (bảo toàn giá trị)

46.Tiền gửi ngân hàng (Bank Deposit; Deposit)
Tiền của dân cư hoặc tổ chức kinh tế, phi kinh tế, lợi nhuận, phi lợi nhuận gửi vào tài khoản tại ngân hàng, hoặc chứng chỉ tiền gửi hoặc sổ tiết kiệm (rất phổ biến tại Việt Nam). Có thể có nhiều loại tài khoản khác nhau, tiết kiệm, séc, giao dịch, v.v.. theo nhiều cách chia.
Về cơ bản các khoản tiền gửi này được hưởng lãi suất tùy theo chính sách lãi suất của ngân hàng nhận tiền tại thời điểm đó, phù hợp với các đặc điểm của món tiền gửi như:
Thời gian gửi;
Số lượng tiền;
Điều kiện số tiền tối thiểu và số lần rút;
Loại sản phẩm ngân hàng người gửi tiền tham gia;
Thời điểm thanh toán (trước sau, có cộng dồng hay không);
Loại tiền gửi (nội tệ, ngoại tệ...)
Dựa trên các đặc điểm và lãi suất, cách thức vay - trả mà các ngân hàng có thể "gói" các loại tài khoản khác nhau để chào các "sản phẩm tiền gửi" tới nền kinh tế, nhằm thu hút sự chú ý và tiền gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế.

47.Tiền mặt (Cash)
Tiền mặt. Tiền hiểu theo nghĩa tiêu dùng được, có thể là phương tiện thanh toán chung nhất như tiền giấy, ngoại hối hay vàng. Trong nền kinh tế hiện đại, tiền giấy, tiền xu hay tiền "điện tử" (nghĩa là các thẻ từ, thẻ chip ghi nhận số tiền người sở hữu đang có tại ngân hàng hoặc công ty tài chính) đều được xem là tiền mặt hợp lệ cho chi tiêu.
Đối với thế giới kinh doanh, tiền mặt hầu như luôn luôn là dòng đầu tiên phản ánh tình trạng và cấu trúc tài sản trong một Bảng cân đối kế toán (Balance Sheet) với ý nghĩa là loại tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao nhất.
Lượng tiền mặt có sẵn trong kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và có sự khác biệt lớn giữa lợi nhuận của hoạt động kinh doanh và lượng tiền mặt sẵn sàng cho chi trả, thanh toán nợ nần. Lợi nhuận của doanh nghiệp được tính bằng đơn vị tiền tệ, tuy nhiên nó chỉ xuất hiện sau khi hoạt động kinh doanh đã trải qua một giai đoạn. Còn lượng tiền mặt thì tính tại một thời điểm. Thế giới kinh doanh đã chứng kiến rất nhiều doanh nghiệp khi tính toán trên sổ sách thì có lãi, nhưng vì không đủ tiền mặt để thanh toán các khoản công nợ tới hạn nên bị phá sản.
Việc thiếu tiền mặt cho thanh toán công nợ tại một thời điểm cũng được gọi là Phá sản kỹ thuật (Technical insolvency). Vì tầm quan trọng của nó người ta hay nói "Cash is King".

48.Tín dụng
Tín dụng gồm có "Tín dụng chứng từ" và "Thư tín dụng dự phòng" là bất cứ một thoả thuận nào, dù có được gọi hoặc mô tả như thế nào, mà theo đó một Ngân hàng hành động theo yêu cầu và theo chỉ thị của một khách hàng:
a. Phải tiến hành trả tiền cho người thứ ba, hoặc phải chấp nhận trả tiền hối phiếu do người hưởng lợi kí phát.
b. Ủy quyền cho một ngân hàng khác trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền thay cho mình.
c. Ủy quyền cho một ngân hàng khác chiết khấu, khi các chứng từ quy định được xuất trình đúng thời gian và hợp lệ.

49.Vốn (Capital)
Vốn là một khái niệm hết sức mơ hồ mà định nghĩa cụ thể của nó phụ thuộc vào văn cảnh sử dụng. Vì thế, để độc giả có cái nhìn đầy đủ về khái niệm này, chúng tôi xin đưa ra định nghĩa "vốn" của một số bộ từ điển lớn:
Theo Investopedia:
Tài sản tài chính hoặc giá trị tài chính của tài sản như tiền mặt.
Các xí nghiệp, máy móc và dụng cụ được sở hữu bởi một công ty.
Nói chung, nó chỉ nguồn tài chính sẵn sàng để sử dụng.
Theo Investorwords:
Tiền mặt hay hàng hóa được sử dụng để mang lại thu nhập bằng cách đầu tư vào một công việc kinh doanh hoặc một tài sản có lợi tức (income property) khác.
Giá trị tịnh của một công ty- chính bằng tổng tài sản của nó trừ các nghĩa vụ vay nợ.
Tiền, tài sản, và các giá trị khác, tất cả tổng hợp lại thể hiện sự giàu có của một cá nhân hoặc một công ty.

50.Vốn lưu động (Working Capital)
Đây là một chỉ số tài chính dùng để đo lường hiệu quả hoạt động cũng như năng lực tài chính trong ngắn hạn của một công ty. Vốn lưu động của một công ty được tính toán theo công thức sau:
Vốn lưu động = Tổng tài sản ngắn hạn - Tổng nợ ngắn hạn
Vốn lưu động dương có nghĩa là công ty có khả năng chi trả được các nghĩa vụ nợ ngắn hạn của mình. Ngược lại, nếu vốn lưu động là một số âm tức là hiện tại công ty không có khả năng thanh toán các khoản nợ bằng tài sản hiện có của mình (bao gồm tiền mặt, khoản phải thu, tồn kho).
Nếu như lượng tài sản ngắn hạn của một công ty không lớn hơn các tổng các khoản nợ ngắn hạn thì công ty này có thể sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán cho các chủ nợ trong ngắn hạn. Trường hợp xấu nhất là công ty có thể bị phá sản. Một sự sụt giảm trong tỉ lệ vốn hoạt động của công ty trong một khoảng thời gian tương đối dài có thể là một dấu hiệu xấu. Ví dụ như doanh số bán hàng của công ty đang sụt giảm kéo theo khoản phải thu ngày càng nhỏ đi.
Vốn lưu động cũng là chỉ số giúp cho các nhà đầu tư có các nhận định về hiệu quả hoạt động của công ty. Lượng tiền bị đọng trong hàng tồn kho hoặc lượng tiền mà khách hàng còn đang nợ đều không thể sử dụng để chi trả bất cứ khoản nợ nào của công ty cho dù đó vẫn là các tài sản thuộc quyền sở hữu của công ty. Vì vậy nếu một công ty không hoạt động ở mức hiệu quả cao nhất (VD: thu hồi nợ chậm) thì điều này sẽ biểu hiện ra ngoài bằng một sự gia tăng trong vốn hoạt động. Có thể nhận thấy điều này rõ ràng hơn nếu so sánh vốn lưu động của công ty qua các thời kì, việc thu hồi nợ chậm có thể là dấu hiệu cho thấy những nguy cơ tiềm ẩn trong hoạt động của công ty.
Tiền chính là nhựa sống của một công ty. Nếu dòng tiền bị ảnh hưởng thì khả năng duy trì hoạt động, tái đầu tư và đáp ứng các yêu cầu về vốn cũng bị đẩy vào tình trạng xấu. Nắm rõ được tình hình nguồn tiền của công ty là điều tối quan trọng để tiến hành ra quyết định. Trong đó đánh giá tình hình nguồn tiền của doanh nghiệp dựa trên việc quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp đó là một trong các biện pháp tốt.

51.Vốn cố định (Fixed capital)
Vốn cố định của doanh nghiệp là bộ phận vốn được sử dụng để hình thành tài sản cố định và các khoản đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp. nói cách khác, vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn của doanh nghiệp.
Đặc điểm của vốn cố định:
Vốn cố định luân chuyển qua nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do tài sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bộ phận vốn cố định đầu tư vào sản xuất được phân ra làm hai phần.một bộ phận vốn cố định tương ứng với giá trị hao mòn của tài sản cố định được dịch chuyển vào chi phí kinh doanh hay giá thành sản phẩm dịch vụ được sản xuất ra, bộ phận giá trị này sẽ được bù đắp và tích lũy lại mỗi khi hàng hóa hay dịch vụ được tiêu thụ. Bộ phận còn lại của vốn cố định nằm ở tài sản cố định dưới hình thức giá trị còn lại của của tài sản cố định.

52.Vốn chủ sở hữu (Equity)
Vốn chủ sở hữu là các nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong các công ty cổ phần.
Có 3 nguồn tạo nên vốn chủ sở hữu: số tiền góp vốn của các nhà đầu tư, tổng số tiền tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (lợi nhuận chưa phân phối) và chênh lệch đánh giá lại tài sản.
Vốn chủ sở hữu bao gồm: vốn kinh doanh (vốn góp và lợi nhuận chưa chia), chênh lệch đánh giá lại tài sản, các quỹ của doanh nghiệp như: quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng phúc lợi... Ngoài ra vốn chủ sở hữu còn gồm vốn đầu tư xây dựng cơ bản và kinh phí sự nghiệp (kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp phát không hoàn lại...)
 

Xem nhiều

Webketoan Zalo OA