Luật làm thơ

  • Thread starter Đoàn Minh Trung
  • Ngày gửi
Đ

Đoàn Minh Trung

Gió thổi dừa rơi
23/12/06
935
24
18
TX Bến Tre
Ai yêu thơ, muốn làm thơ. Nhưng thơ cũng như kế toán, có luật lệ riêng cuả nó.
Muốn làm thơ hay, trước tiên phải làm thơ đúng. Nhất là thơ theo thể Đường luật.
Dù không làm thơ nếu biết luật thơ thì khi ta đọc thơ, cũng biết được cái hay cái đẹp cuả một bài thơ. Nói cách khác là ta cũng biết thưởng thức thơ.
Sau đây là các bài sưu tầm về luật làm thơ, dành cho bạn nào quan tâm đến.



Luật Làm Thơ

Bài cuả Út Thương

Thơ Lục Bát

Lục bát là thể thơ thông dụng nhất, vì cách gieo vần tương đối đơn giản.

Lục = sáu chữ --- chữ 2 bằng, 4 trắc, 6 bằng
Bát = tám chữ --- chữ 2 bằng, 4 trắc, 6 bằng, 8 bằng

x B x T x B (v1)
x B x T x B (v1) x B (v2)
x B x T x B (v2)
x B x T x B (v2) x B (v3)

Bằng (B): Là những chữ có dấu huyền, hoặc không có dấu
Trắc (T): Là những chữ mang dấu: Sắc, hỏi, ngã, nặng
X: Không qui luật ( Bằng hoặc Trắc cũng được )

Thơ Thất Ngôn (hay còn gọi Tứ Tuyệt)

Thất ngôn đơn giản là thể thơ gồm bốn câu mỗi đoạn, và mỗi câu được mang bảy chữ, được sắp theo luật như sau:

Bốn câu được chia thành hai cặp:
Một cặp mang thanh x T x B x T x (trắc, bằng, trắc)
Một cặp mang thanh x B x T x B x (bằng, trắc, bằng)

Hai cặp này có thể đặt xen kẽ, hoặc đối xứng tùy ý, miễn sao nghe êm tai là được. Trong từng câu, những chữ mang thanh trắc bằng bắt buộc phải là các chữ 2, 4, và 6 của mỗi câu. Như vậy chữ thứ 2 và thứ 6 luôn mang cùng một thanh còn chữ thứ 4 thì ngược lại theo đúng luật thơ.

Thơ Bát Ngôn (thơ 8 chữ)

Bát Ngôn là thể thơ tám chữ, tức là mỗi dòng trong đoạn thơ sẽ có tám chữ. Làm thơ Bát ngôn dễ dàng hơn những thể thơ khác rất nhiều vì không bị luật thơ gò bó như những thể loại khác:

Câu đầu tiên của bài thơ thì có thể tự do mà làm, vì không phải theo khuôn khổ nào hết.

Câu hai và ba thì chữ cuối của câu hai và câu ba phải theo cùng vần là trắc trắc, hoặc bằng bằng, cứ hai cặp trắc lại đến hai cặp bằng cho đến hết bài thơ.

Câu cuối cùng cũng tương tự câu đầu. không cần phải vần với câu nào hết, nhưng nếu chữ cuối của câu cuối có thể vần với chữ cuối câu đầu thì sẽ hay hơn.

Vì Bát ngôn không có quá gò bó, từ ngữ bạn dùng sẽ làm bài thơ trở nên hay hơn, chỉ cần uốn nắn, uyển chuyển dùng từ sẽ tạo ra một bài thơ thật hấp dẫn.

Thơ Tứ Ngôn (thơ 4 chữ)

Thơ tứ ngôn là loại thơ có thể gọi là đơn giản nhất bởi vì luật bằng trắc chỉ được áp dụng cho chữ thứ 2 và chữ thứ 4 trong câu mà thôi.

Nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc và ngược lại nếu chữ thứ 2 là trắc thì chữ thư 4 là bằng.

Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm hai loại thường được gọi là cách gieo vần tiếp, và cách gieo vần tréo. Tuy nhiên vẫn còn một cách gieo vần nữa, cách này ít ai dùng đến, là cách gieo vần ba tiếng.

Cách gieo vần tiếp
x B x T (v1)
x B x T (v1)
x T x B (v2)
x T x B (v2)

Cách gieo vần tréo
x B x T (v1)
x T x B (v2)
x B x T (v1)
x T x B (v2)

Cách gieo vần ba tiếng
x B x T (v1)
x T x B (v1)
x B x T (tự do)
x T x B (v2)

Thơ Ngũ Ngôn (thơ 5 chữ)

Cũng giống như thơ 4 chữ, nếu chữ thứ 2 trong câu là bằng thì chữ thứ 4 là trắc và ngược lại. Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm hai loại thường được gọi là cách gieo vần ôm, và cách gieo vần tréo.

Cách gieo vần ôm
x B x T x (v1)
x T x B x (v2)
x B x T x (v2)
x T x B x (v1)

Cách gieo vần tréo
x B x T x (v1)
x T x B x (v2)
x B x T x (v1)
x T x B x (v2)

Thơ Đường

Thơ Đường được bắt đầu từ bên Trung Hoa, thời nhà Đường bên Trung Hoa rất xem trọng các văn hào, và cũng vì lẽ đó nên các quan trong triều bắt buộc phải biết làm thơ, cho nên trong thơ nhà Đường có rất nhiều thi sĩ nổi tiếng. Đặc biệt hơn nữa, các thi hào thời nhà Đường đã phát triển một lối làm thơ riêng biệt mà ngày nay chúng ta được biết là thơ Đường.

Thơ Đường còn được gọi là "Đường Thi Thất Ngôn Bát Cú" tạm dịch là Đường thơ bảy chữ tám câu. Tám câu này được phân ra thành bốn cặp (cặp là hai câu giống nhau theo luật bằng trắc).

cặp 1: gồm câu một và câu tám
cặp 2: gồm câu hai và câu ba
cặp 3: gồm câu bốn và câu năm
cặp 4: gồm câu sáu và câu bảy

Cũng giống như Thất Ngôn Tứ Tuyệt, luật bằng trắc trong Đường Thi áp dụng cho những chữ 2, 4, và 6 trong mỗi câu; đặc biệt, những chữ 7 (chữ cuối của mỗi câu) cũng phải theo luật bằng-trắc (b=bằng, t=trắc).

Nếu mở đầu bài thơ bằng T B T (luật trắc) thì bài thơ sẽ theo luật như sau:

câu 1: x T x B x T b (vần)
câu 2: x B x T x B b (vần)
câu 3: x B x T x B t
câu 4: x T x B x T b (vần)
câu 5: x T x B x T t
câu 6: x B x T x B b (vần)
câu 7: x B x T x B t
câu 8: x T x B x T b (vần)

Nếu mở đầu bài thơ bằng B T B (luật bằng) thì bài thơ sẽ theo luật như sau:

câu 1: x B x T x B b (vần)
câu 2: x T x B x T b (vần)
câu 3: x T x B x T t
câu 4: x B x T x B b (vần)
câu 5: x B x T x B t
câu 6: x T x B x T b (vần)
câu 7: x T x B x T t
câu 8: x B x T x B b (vần)

Điểm khó nhất trong Đường Thi là câu số ba và câu số bốn, bởi vì hai câu này được gọi là hai câu THỰC và hai câu năm và câu sáu là hai câu LUẬN.... hai cặp câu này luôn luôn đối nhau, danh từ (noun) đối danh từ, động từ (verb) đối động từ, tính từ (adjective) đối tính từ, quan trọng hơn cả là hai cặp câu này phải Ý đối Ý.

Điểm cao nhất của Đường Thi là có thể HỌA THƠ với người khác, nghĩa là sẽ dùng lại tất cả những mang VẦN của bài thơ muốn họa tức là bài thơ của người đầu tiên (thường được gọi là bài Xướng Thi) để diễn tả theo ý thơ của mình.

Note:
Chủ ý để viết nên 1 bài thơ là để diễn tả cảm xúc, dùng từ ngữ mà diễn đạt tâm ý của người làm thơ, nhiều khi quá gò bó trong luật thơ có thể sẽ mất đi cái hứng làm thơ, vì vậy, nếu bài thơ khi đọc lên nghe êm dịu, xuôi tai, diễn tả được ý tứ và cảm xúc của tác giả thì không cần theo đúng luật thơ cũng có thể là 1 bài thơ hay phải không các bạn.

(UTTHUONG)

BÀI CỦA HOAMOCLAN


Các thể loại thơ thông thường: Thể Lục Bát, Biến Thể Lục Bát, Thể Song Thất Lục Bát, Thể Thất Ngôn/Bảy Chữ (Thơ Cũ), Thể Thất Ngôn/Bảy Chữ (Thơ Mới), và Thể Thơ Tám Chữ.


Thể Lục Bát


Thơ Lục Bát, còn được gọi là thơ "Sáu Tám", vì câu đi trước có 6 chữ, còn câu đi sau có 8 chữ. Cứ thế mà lập lại hoài cho tới khi nào tác giả muốn ngưng bài thơ. Thông thường, bài thơ Lục Bát dừng lại ở câu 8.

1. Cách Gieo Vần-Chữ cuối của câu trên (tức câu 6) phải vần với chữ thứ sáu của câu dưới (tức câu 8). Cứ mỗi hai câu thì đổi vần, và bao giờ cũng gieo vần bằng (còn gọi là bằng hoặc bình, tức có dấu huyền hoặc không dấu). Ký hiệu của bằng là B. Ðặc biệt chữ thứ tư của câu 6 và câu 8 và chữ thứ bảy của câu 8 luôn luôn được gieo ở vần trắc hay trắc (tức có dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã, hoặc dấu nặng). Ký hiệu của trắc là T. Chữ thứ sáu của câu 8 được gọi là yêu vận (vần lưng chừng câu), và chữ thứ 8 của câu tám được gọi là cước vận (vần cuối câu). Vận hay vần là tiếng đồng thanh với nhau. Gieo vần thì phải hiệp vận (tức cho đúng vận của nó). Ví dụ: hòn, non, mòn, con... Nếu gieo vần mưa với mây thì bị lạc vận. Còn nếu gieo vần không hiệp với nhau thì gọi là cưỡng vận. Ví dụ: tin đi với tiên.

2. Luật Bằng Trắc-Cách dùng mẫu tự và viết tắt như sau: B là Bằng, T là Trắc, V là Vần.

Câu 6: B B T T B B
Câu 8: B B T T B B T B

Ví dụ:
Câu 6: Trăm năm | trong cõi | người ta
Câu 8: Chữ tài | chữ mệnh | khéo là | ghét nhau
Câu 6: Trải qua | một cuộc | bể dâu
Câu 8: Những điều | trông thấy | mà đau | đớn lòng
(Kiều)

Ghi chú: Chữ là và đau là yêu vận (tức là vần đặt ở trong câu); chữ nhau và lòng là cước vận (tức là vần đặt ở cuối câu). Chữ thứ 6 của câu 6 (ta) hiệp vận (V) với chữ thứ 6 của câu 8 (là), chữ thứ 8 (nhau) của câu 8 hiệp vận (V) với chữ thứ 6 (dâu) của câu 6, chữ thứ 6 (dâu) của câu 6 hiệp vận (V) với chữ thứ 6 (đau) của câu 8.

Biệt lệ-Tuy luật bằng trắc đã qui định như ở trên, nhưng những chữ thứ 1, thứ 3 và thứ 5 nếu không theo đúng luật thì cũng không sao. Cái biệt lệ ấy được gọi là "nhất, tam, ngũ bất luận", có nghĩa là chữ thứ 1, chữ thứ 3 và chữ thứ 5 không kể (bất luận), tức không nhất thiết phải theo đúng luật. Còn các chữ thứ 2, chữ thứ 4, và chữ thứ 6 bắt buộc phải theo đúng luật (phân minh), do câu "nhì, tứ, lục phân minh".
Ví dụ:
Trăm năm trong cõi người ta (Kiều)
(Ghi chú: chữ thứ 3 (trong) đáng lẽ thuộc vần Trắc, nhưng lại đổi thành vần Bằng).
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (Kiều)
(Ghi chú: chữ thứ 1 (Chữ) và thứ 5 (khéo) đáng lẽ thuộc vần Bằng, nhưng lại đổi thành vần Trắc).

3. Thanh-Thanh gồm có Trầm Bình Thanh và Phù Bình Thanh. Trầm Bình Thanh là những tiếng hay chữ có dấu huyền. Ví dụ: là, lòng, phòng... Phù Bình Thanh là những tiếng hay chữ không có dấu. Ví dụ: nhau, đau, mau... Trong câu 8, hai chữ thứ 6 và thứ 8 luôn luôn ở vần Bằng, nhưng không được có cùng một thanh. Có như thế, âm điệu mới êm ái và dễ nghe. Nếu chữ thứ 6 thuộc Phù Bình Thanh thì chữ thứ 8 phải thuộc Trầm Bình Thanh, và ngược lại.
Ví dụ:
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
(Ghi chú: là thuộc Trầm Bình Thanh, nhau thuộc Phù Bình Thanh).
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
(Ghi chú: đau thuộc Phù Bình Thanh, lòng thuộc Trầm Bình Thanh).

4. Phá Luật-Thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp người làm thơ thích phá luật ở chữ thứ hai câu 6, thay vì vần bằng thì lại đổi ra vần trắc; còn chữ thứ tư thì có khi đổi thành vần bằng thay vì vần trắc như thường lệ. Câu 6 cũng được ngắt ra làm hai vế.
Ví dụ: Mai cốt cách | tuyết tinh thần (B T T T B
Mỗi người | một vẻ | mười phân | vẹn mười (T B T T B B T
(Kiều)
Ðau đớn thay | phận đàn bà (B T B T B
(Kiều)
Khi tựa gối | khi cúi đầu (B T T B T
(Kiều)
Ðồ tế nhuyễn | của riêng tây (B T T T B
Sạch sành sanh vét | cho đầy túi tham (T B B T B B T
(Kiều)

Biến Thể Lục Bát
Biến Thể Lục Bát là thể văn biến đổi ở cách gieo vần.

Ví dụ:
Câu 6: Vừa ra đến chợ một khi
Câu 8: Thấy rồng che phủ tứ vi một người
Câu 6: Nguyên nàng số lý nghề nòi
Câu 8: Dưới đất trên trời thuộc hết mọi phương (T T B B T T B
(Truyện Lý Công )
Chú thích: Câu tám thứ hai vừa phá luật vừa biến thể. Chữ thứ tư (trời) của câu 8 lại vần với chữ thứ sáu (nòi) của câu 6.
Hoặc:
Câu 6: Khoan khoan chân bước bên đường
Câu 8: Thấy chàng họ Lý ngồi đương ăn mày
Câu 6: Ðầu thời đội nón cỏ may
Câu 8: Mặt võ mình gầy cầm sách giờ lâu (T T B B B T B
(Truyện Lý Công)
Chú thích: Câu tám thứ hai vừa phá luật vừa biến thể. Chữ thứ tư (gầy) của câu 8 lại vần với chữ thứ sáu (may) của câu 6.

Trên đây là một số niêm luật căn bản của thơ Lục Bát. Làm thơ Lục Bát tuy dễ mà khó. Cái khó là ở cách gieo vần, làm sao đừng cho bị lạc vận hoặc cưỡng vận. Một bài thơ hay mà bị lạc vận hoặc cưỡng vận thì sẽ làm hỏng cả bài thơ, cũng giống như một con sâu làm hỏng cả nồi canh ngon vậy!

Người viết sẽ nêu một vài ví dụ điển hình để bạn thấy những khuyết điểm nho nhỏ mà người làm thơ không để ý tới, có thể vì chưa nắm vững niêm luật hoặc cũng có thể vì coi thường niêm luật. Sự không hiệp vận ấy gọi là cưỡng vận hay ép vận (tin đi với tiên) và lạc vận (mưa đi với mây).
(Ghi Chú: Về Vần hay Vận, xin xem một bài viết riêng về Thanh, Bằng Trắc và Vần của cùng tác giả sẽ cống hiến các bạn trong một dịp khác.)

Ví dụ:
Nhớ xuân lửa đạn rừng đồi
Nhớ đêm không ngủ cuối trời Việt Nam
Bây giờ mượn chút thời gian
Chia cho hiện tại để làm quà Xuân
Chú thích:
đồi đi với trời là Cưỡng vận (đồi với trời thuộc Vần Thông,1 chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).
Nam đi với gian là Lạc vận (Nam và gian không thuộc Vần Chính 2 và Vần Thông).
gian đi với làm là Lạc vận (gian và làm không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

Nhớ mi quầng biệt Quỳnh Côi
Nhớ hương bồ kết nhớ người mẹ quê
Chú thích:
Côi đi với người là Lạc vận (Côi và người không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

Nhớ em phụng phịu: trời mưa
Giao thừa chẳng được vui đùa với nhau
Chú thích:
Mưa đi với đùa là Cưỡng vận (mưa và đùa thuộc Vần Thông, chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).

Có người hôm ấy chải đầu
Vô tình tóc cứ bay vào vai ta
Chú thích:
đầu đi với vào là Lạc vận (đầu và vào không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

Ly cà phê Mỹ nhạt hơn
Nhưng đầy chất đắng trong hồn tha hương
Chú thích:
hơn đi với hồn là Cưỡng vận (hơn và hồn thuộc Vần Thông, chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).

Vẫn không gian ấy bão bùng
Hay mồ hôi tưới trên thung lũng cằn
Bây giờ ngồi giữa thế gian
So giây ướm thử mấy gam giao mùa

Chú thích:
cằn đi với gian là Lạc vận (cằn và gian không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
gian đi với gam là Lạc vận (gian và gam không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

Gió thơm từ thuở hoàng hôn
Theo chân ánh sáng về ôm ngang trời
Chú thích:
hôn đi với ôm là Lạc vận (hôn và ôm không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

Rừng Xuân hoa lá êm đềm
Có người thơ thẩn đi tìm phong lan
Chú thích:
đềm đi với tìm là Lạc vận (đềm và tìm không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

1 Vần Thông là những vần chỉ hợp nhau về thanh, còn âm thì tương tự chớ không hợp hẳn.
2 Vần Chính là những vần mà cả thanh lẫn âm đều hợp nhau.

BÀI NÀY CỦA BĂNG THANH

CÁCH LÀM THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ
(Thơ Đường Luật)

Thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm có 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Tổng cộng có 56 chữ.

Về cách phối âm, hay luật bằng trắc giữa các câu, ta chỉ nói các thanh Bằng-Trắc của các chữ đứng thứ 2-4-6 trong 1 câu (theo quy tắc Nhất-tam-ngũ bất luận, nhị-tứ-lục phân minh). Các tiếng 2-4-6 trong cùng 1 câu theo thứ tự luật bằng trắc có thể là B - T - B hay có thể là T - B - T.
Ví dụ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông B - T - B
Nuôi đủ năm con với một chồng T - B - T

Đôi khi trong câu đầu tiên của bài thơ cũng có thể làm theo thứ tự B - B - T, cũng có thể xem đó là luật phối thanh của câu T - B - T. Ví dụ:
Một đèo, một đèo, lại một đèo B - B - T

Về cách gieo vần trong thơ: Vần trong thơ là những tiếng đọc giống nhau hay những tiếng đọc gần giống nhau như cùng một vần, hay là vần gần giống nhau mhư sông-chồng, tà-hoa.... Các vần giống nhau trong thơ Đường luật mang thanh bằng, và được đặt ở cuối mỗi câu thơ. Có thể gieo vần vào các tiếng cuối của các câu 1-2-4-6-8, hay có thể là 2-4-6-8, và các vần phải vần với nhau rõ ràng,các tiếng cuối câu 3-5-7 còn lại phải mang thanh trắc, các cao nhân thời xưa thường hay gieo vần vào các tiếng cuối các câu 1-2-4-6-8. Ví dụ:
Sóc phong suy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn, kình khoa sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
Quan hà Bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa tằng
Vãn sự hồi đầu ta dĩ hĩ
Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng
(Bạch Đằng hải khẩu - Nguyễn Trãi)

Trong khi gieo vần thường các cao nhan cũng chú ý đối thanh trong thơ, thường có 2 cách đối thanh, đó là đối thanh huyền (H) và thanh ngang (N) trong các vần được gieo. Ở bài thơ ví dụ trên ta thấy lăng-Đằng-tằng-tằng-thăng theo thứ tự N-H-H-H-N. Còn cách đối kách là xen kẽ thanh huyền và thanh ngang với nhau. Ví dụ như bài Qua đèo ngang của bà huyện Thanh Quan.

Phép đối trong thơ thất ngôn bát cú, là đối giữa các câu 3-4, 5-6. Các câu này đối lại nhau như các câu đối thời xưa. Rõ nhất là về các câu trong bài Qua đèo Ngang. Về bố cục thì bài thơ được chia làm 4 mỗi phần có 2 câu:
Câu 1-2 là hai câu đề: Mở ra vấn đề về bài thơ
Câu 3-4 là hai câu thực: Giải thích về vẫn đề
Câu 5-6 là hai câu luận: Bàn luận về vấn đề
Câu 7-8 là hai câu kết: Kết luận lại vấn đề



CÁCH LÀM THƠ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT


Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật gồm có 4 câu, mỗi câu 7 chữ, về phối thanh hay luật bằng trắc hoàn toàn giống thơ thất ngôn bát cú. Về gieo vần thì có 3 cách:
Gieo vần vào tiếng cuối các câu 1-2-4 (tiếng cuối câu 3 bắt buộc thanh trắc)
Ví dụ:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Cách này thường được các cao nhân thời xưa xử dụng nhiều nhất.

Gieo vần chéo: vào tiếng cuối các câu 1-3 (tiếng cuối các câu 2-4 phải là thanh trắc) hay các câu 2-4 (tiếng cuối các câu 1-3 phải là thanh trắc). Ví dụ:

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân

Cách này thường được Hồ Chí Minh sử dụng.

Gieo vần ôm: Tiếng cuối câu 1 vần với tiếng cuối câu 4, tiếng cuối câu 2 vần với tiếng cuối câu 3. Ví dụ:

Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi
Qua những sân cung rộng hải hồ
Có phải A Phòng hay Cô Tô ?
Lá liễu dài như một nét mi

Cách này ít người sử dụng.

Nói chung thơ này giống với thơ thất ngôn bát cú.



CÁCH LÀM THƠ NGŨ NGÔN

Thơ ngũ ngôn Đường luật cũng giống thơ thất ngôn Đường luật, hoàn toàn giống về niêm, về cách gieo vần, nhưng về bắng trắc thì chỉ có 2 tiếng 2-4 nên theo thứ tự B-T hay là T-B, cứ như thế.
Ví dụ:

Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình nghi nổ lực
Vạn cổ thử giang san.


CÁCH NGẮT NHỊP THƠ


Đọc thơ phải đúng cách, đó là đọc đúng cách ngắt nhịp trong thơ để có thể cảm nhận hết được những ý tứ của tá gỉ trong thơ.
Cách ngắt nhịp thường gặp trong thơ thất ngôn Đường luật là nhịp chắn: nhịp 2/2/3 hay còn gọi là nhịp 4-3.Ví dụ:

Một đèo / một đèo / lại một đèo

Nhưng đôi khi cũng có thể làm nhịp 3-4 theo dụng ý tác giả.
Cách ngắt nhịp thơ ngũ ngôn theo nhịp 2/3.
Cách ngắt nhịp giúp ta hiểu rõ thơ hơn, cảm nhận hết ý tứ thơ.


Trên đây chỉ là những hiểu biết sơ sài của tôi về thơ Đường luật, post lên đây với mong muốn mọi nguời hãy sửa chữa những chỗ sai sót và bổ sung chỗ thiếu sót giúp cho chúng ta có thể hiểu thêm về một thể thơ nổi tiếng từ thời xa xưa đến nay. Mong các bạn giúp đỡ. Cảm ơn.



SONG THẤT LỤC BÁT


Song Thất Lục Bát . Có 4 câu : hai câu đầu 7 chữ, câu thứ ba 6 chữ, câu cuối 8 chữ

Luật Bằng trắc :





Luật :

x = Không qui luật ( Bằng hoặc Trắc cũng được )

B = Bằng ( là những chữ không dấu hoặc có dấu huyền )

T = Trắc ( là những chữ có dấu Sắc, Hỏi , Ngã , Nặng )T1= Vần Trắc ......T1 ( chữ thứ 7 ) của câu 1 phải vần với T1 ( chữ thứ 5 ) của câu 2 B2= Vần Bằng .....Chữ thứ 7 của câu 2 ..vần với chữ thứ 6 cuả câu 3 .....Chữ thứ 6 của câu 4 vần với chữ thứ 6 của câu 3




Vần

Chữ thứ 5 của câu 2 ( tháng ) vần với chữ thứ 7 của câu 1( ngán )

Chữ cuối cùng của câu 3 ( ca ) vần với chữ cuối của câu 2 ( qua )

Chữ thứ 6 của câu 4 ( xa ) vần với chữ cuối của câu 3 ( ca )

Note : Câu 3 và câu 4 làm theo thể thơ Lục Bát



Âm Khúc :

Chia từng câu thành những khúc nhỏ ..... trong Song Thất Lục Bát chia câu số 1 thành hai khúc và dùng lời thơ để nhấn mạnh từng khúc :

Câu 1 :

Đông đã đến / bao mùa ngao ngán

Câu 2 :

Nhớ thương người, / bao tháng năm qua

Câu 3 :

Phổ cầm / khúc tuyệt / tình ca

Câu 4 :

Nhỏ giòng / máu thắm / xót xa / đoạn trường



SONG THẤT LỤC BÁT

Cũng như LỤC BÁT, SONG THẤT LỤC BÁT thường được dùng trong những truyện thơ, và là thể loại thứ hai của hai thể thơ "chính tông" trong Việt văn.

Song Thất Lục Bát là loại thơ mở đầu bằng hai câu THẤT, rồi tiếp đến hai câu LỤC BÁT, tạo thành một KHỔ với ý từ trọn vẹn. (có nghĩa là trong 4 câu phải trọn vẹn một ý)

Câu THẤT trên (câu số 1), tiếng thứ 3 là chữ TRẮC, tiếng thứ 5 là chữ BẰNG, và tiếng thứ 7 là chữ TRẮc và VẦN.

Câu Thất dưới (câu số 2), tiếng thứ 3 là chữ BẰNG, tiếng thứ 5 là chữ TRẮC và VẦN với tiếng thứ 7 của câu trên, tiếng thứ 7 là chữ BẰNG và VẦN.

***Song Thất Lục Bát không giống như Thất Ngôn Luật theo lối

Hán văn, vì luật BẰNG TRẮC được áp dụng trong Song Thất ở

chữ thứ 3, thứ 5, mà trong Thất Ngôn Luật thì chữ thứ 3 và

chữ thứ 5 lại có thể theo lệ BẤT LUẬN.

Sau hai câu Thất là hai câu Lục Bát, theo luật của Lục Bát...chữ cuối của câu LỤC vần với chữ thứ 7 của câu THẤT thứ nhì):

ĐIỀU NGOẠI LỆ: Thông thường chữ thứ 3 của câu Thất(1) là chữ TRẮC, nhưng trong trường hợp không có đối ở câu dưới, thì chữ thứ 3 của câu Thất trên có thể là chữ BẰNG. :

Nguồn: Sưu tầm
 
Sửa lần cuối:
Khóa học Quản trị dòng tiền
TAT

TAT

Thành viên Tình Nguyện
6/8/05
1,014
12
0
46
Làng Cà
Làm thơ ta vốn rất ham
Nhưng vì nghiêm luật biết làm sao đây?
Ngày dài ngồi đếm trời mây
Học bài nghiêm luật cho đầy bụng thơ ^^
 
Đ

Đoàn Minh Trung

Gió thổi dừa rơi
23/12/06
935
24
18
TX Bến Tre
Luật lệ là dành cho thơ có luật, còn thơ tự do (thơ mới) bất kể thể nào (lục bát, thất ngôn...) đều ko có luật (tự do mà)

Dưới đây là bài viết nghiên cứu rất bổ ích của bác Lá Chờ Rơi ,tôi mạn phép đăng tải về đây cho các bạn tham khảo :


THƠ ĐƯỜNG : HAI CÁCH LÀM THƠ TNBC ĐƯỜNG LUẬT



Hai bài viết :
THƠ ĐƯỜNG : THẤY SAO NÓI VẬY
và HỌC LÀM THƠ ĐƯỜNG như THI NHÂN ĐỜI ĐƯỜNG

cho thấy phớt qua là có 2 cách làm một bài thơ TNBC Đường Luật, khó dễ khác nhau. Bài này xin nói rõ hơn về hai cách đó :

* làm thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật, nếu theo kiểu mẫu qui định bởi dải số 1-8 2-3 4-5 6-7, thì tương đối gặp khá nhiều sự ràng buộc.
* làm thơ TNBC Đường Luật theo kiểu mẫu thi nhân đời Đường áp dụng, thì cách thực hành đơn giản hơn nhiều, mà lại bao gồm luôn những cách chơi quy định bởi dải số 1-8 2-3 4-5 6-7.

Để tránh lập lại những chi tiết dông dài, xin gọi tắt cách chơi theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 là cách “theo Dải Số”, và cách chơi kia là cách “theo Đường Thi”.

Hai cách làm 1 bài thơ TNBC Đường Luật nói trên, có sự khó dễ khác nhau theo từng bước như sau :

Khi viết câu 1 và câu 2 :
1. Hai câu 1 và 2 không cần phải đối nhau.
2. Hai câu đều phải mang vần (chỉ nói về vần Bằng). Câu 1 có thể không có vần.
3. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng, một câu theo luật Trắc, Luật nào trên Luật nào dưới cũng đều được cả.
3 qui định trên đều áp dụng cho cả hai cách (“theo Dải Số” và “theo Đường Thi”).

Ví dụ như câu 1 và câu 2 là :

Lá úa lao xao vẩy phất phơ = (câu trên theo luật Trắc)
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
hoặc là :

Một trời hương sắc một trời thơ = (câu trên theo luật Bằng)
Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung

Khi viết câu 3 và câu 4 :
1. Hai câu 3 và 4 phải đối nhau.
2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc
3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần. 3 qui định này áp dụng cho cả hai cách.
4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc,

Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên (1 và 2) ra sao.

Ví dụ dùng hai câu 1 và 2 của Đồng Lão :

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng

Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu lấy hai câu 1 và 2 của Đồng Lão, thì câu 3 phải theo luật Bằng, câu 4 phải theo luật Trắc.

Ví dụ :

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh

Lưu ý là cách chơi “theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi “theo Dải Số” .

Khi viết câu 5 và câu 6 :
1. Hai câu 5 và 6 phải đối nhau.
2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc
3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần. 3 qui định này áp dụng cho cả hai cách.
4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc,

Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên ra sao.

Ví dụ, nối tiếp 4 câu trên của cách “theo Dải Số” :

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Tam phân thiên hạ điều lo thực
Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong

Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu nối tiếp 4 câu trên của cách “theo Dải Số” , thì câu 5 phải theo luật Trắc, câu 6 phải theo luật Bằng.

Ví dụ :

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali

Nhắc lại là cách chơi “theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi “theo Dải Số” .

Khi viết câu 7 và câu 8 :
1. Hai câu 7 và 8 không cần phải đối nhau.
2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc
3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần. 3 qui định này áp dụng cho cả hai cách.
4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc,

Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên ra sao.

Ví dụ, nối tiếp 6 câu trên của cách “theo Dải Số” :

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu nối tiếp 6 câu trên của cách “theo Dải Số”, thì câu 7 phải theo luật Bằng, câu 8 phải theo luật Trắc.

Ví dụ :

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

8 câu trên được Dải Số chấp nhận, vì thỏa mãn được mọi sự ràng buộc từ câu 3 trở xuống đến câu 8.

Còn với cách chơi thoải mái “theo Đường Thi” , thì từ câu 3 trở xuống đến câu 8 có rất ít sự ràng buộc, và toàn bài thơ có thể như thế này :

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

8 câu này trúng vào phép Niêm và Luật của bài CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy và bài ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch.

Nhắc lại là cách chơi “theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi “theo Dải Số” .

Đi vào chi tiết để thấy rõ như sau :

Về Niêm :
Trên hai phần tứ cú của bài bát cú, thi nhân đời Đường dùng cả hai phép Niêm 1-4 2-3 và 1-3 2-4, đồng thời cho phép hai phần tứ cú (một trên một dưới) tự do dùng phép Niêm khác nhau.

Do đó nên trên nguyên tắc, có cả thảy 4 dạng Niêm :
1/ trên Niêm 1-4 2-3, dưới Niêm 1-4 2-3
2/ trên Niêm 1-4 2-3, dưới Niêm 1-3 2-4
3/ trên Niêm 1-3 2-4, dưới Niêm 1-4 2-3
4/ trên Niêm 1-3 2-4, dưới Niêm 1-3 2-4

Về Luật :
Thi nhân đời Đường cũng cho phép hai phần tứ cú (một trên một dưới) tự do theo Luật khác nhau.
Nên trên nguyên tắc, cũng có cả thảy 4 dạng Luật :
a/ trên theo Luật Bằng, dưới theo Luật Bằng
b/ trên theo Luật Bằng, dưới theo Luật Trắc
c/ trên theo Luật Trắc, dưới theo Luật Bằng
d/ trên theo Luật Trắc, dưới theo Luật Trắc

Bất cứ thể Niêm nào cũng đều mang theo một thể Luật nên sự pha trộn đầy đủ trên nguyên tắc sẽ cho 16 dạng Niêm + Luật là :

1.a, 1.b, 1.c, 1.d
2.a, 2.b, 2.c, 2.d
3.a, 3.b, 3.c, 3.d
4.a, 4.b, 4.c, 4.d

Tổng cộng 16 dạng Niêm+Luật trên lý thuyết đó có thể mô tả với những cặp 2 câu thơ viết sẵn đã nêu ở phần trên như sau :

1.a - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Hàn Phong + Thi Nang

Một trời hương sắc một trời thơ
Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Tam phân thiên hạ điều lo thực
Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : (các con số chỉ phép Niêm, Bằng hay Trắc chỉ Luật)
1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Bằng (đây là một bài TNBC đúng “theo Dải Số” )
- giống như bài KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị) của Đỗ Phủ -

1.b - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Vancali + lá chờ rơi

Một trời hương sắc một trời thơ
Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- giống như bài HÀ TIỆN của Nguyễn Minh Triết -

1.c - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Thi Nang

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Tam phân thiên hạ điều lo thực
Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- giống như bài VĂN LÂN GIA LÝ TRANH của Từ An Trinh -

1.d - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Vancali + Lá chờ rơi

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Dải Số )
- giống như bài KHÚC GIANG ÐỐI TỬU của Đỗ Phủ -

2.a - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Hàn Phong + lá chờ rơi

Một trời hương sắc một trời thơ
Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Tam phân thiên hạ điều lo thực
Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- giống như bài ÐỘC TIỂU THANH KÝ của Nguyễn Du -

2.b - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Vancali + Thi Nang

Một trời hương sắc một trời thơ
Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- tương tự như bài TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ của Cao Thich, bài của Cao Thích có Niêm + Luật tréo lại là (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng) -

2.c - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Lá chờ rơi

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Tam phân thiên hạ điều lo thực
Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- giống như bài ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN của Lưu Trường Khanh -

2.d - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Vancali + Thi Nang

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- giống như bài SỐNG ĐỜI TIÊN của lá chờ rơi -

3.a - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Thi Nang

Một trời hương sắc một trời thơ
Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Tam phân thiên hạ điều lo thực
Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- giống như bài KÝ THÔI THỊ NGỰ của Lý Bạch -

3.b - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Vancali + lá chờ rơi

Một trời hương sắc một trời thơ
Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- tương tự như bài ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI của Lý Bạch, bài của Lý Bạch có Niêm + Luật là (1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng) -

3.c - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Hàn Phong + Thi Nang

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Tam phân thiên hạ điều lo thực
Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Trắc, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- giống như bài HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ của Đỗ Phủ -

3.d - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Vancali + Lá chờ rơi

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Trắc, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- giống như bài DĨ HÒA VI QUÝ của Nguyễn-Bỉnh-Khiêm -

4.a - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + lá chờ rơi
Một trời hương sắc một trời thơ
Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Tam phân thiên hạ điều lo thực
Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- Niêm giống như bài CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy nhưng khác Luật, bài của Vương Duy có Niêm + Luật là (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc) –

4.b - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Vancali + Thi Nang

Một trời hương sắc một trời thơ
Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- giống như bài VUI XUÂN CON TRÂU của Sương Anh -

4.c - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Hàn Phong + Lá chờ rơi

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi
Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Tam phân thiên hạ điều lo thực
Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- giống như bài BÁC LÁ YÊU DẤU ! của Vancali -

4.d - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Vancali + Thi Nang

Lá úa lao xao vẩy phất phơ
Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
- giống như bài ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch -

*******

Tất cả 16 bài TNBC trên đây đều có âm điệu hài hòa.
Phép Niêm 1-3 2-4 là một trong 2 phép Niêm chính thống của thơ Tứ Tuyệt. Dải Số không dùng nhưng thi nhân đời Đường vẫn dùng.
Ngoài ra những nơi có sự đổi Niêm, đổi Luật đều không hề gây ra sự chói tai, khổ độc nào, mà có khi lại cho người đọc cái cảm giác nghe hay hơn, nhờ sự “đổi mới” thay vì sự “nhàm chán” khi gặp hoài một “điệu thơ cũ” dù là hay đến mấy.

Như mọi người có thể nhận ra là phép chơi “theo Đường Thi” không cần biết các câu phía trên theo luật nào, những câu thơ từ 1 đến 8 sẽ như sao và sẽ đan kết với nhau ra sao. Cứ tự nhiên để cho hứng thơ, tứ thơ đun đẩy mà viết mỗi cặp với 1 câu Trắc 1 câu Bằng, thì có thể hoàn toàn yên trí rằng, khi xong hết 8 câu, chúng sẽ tạo ra hai phần tứ cú đúng Niêm 1-4 2-3 hoặc 1-3 2-4.

Cái dễ của cách chơi “theo Đường Thi” là như vậy. Nhưng dùng cách chơi này là chấp nhận cách chơi của thi nhân đời Đường. Phần lớn các tác phẩm sẽ khác với cách chơi “theo Dải Số” . Trung bình cứ 16 bài thì mới có 2 bài “theo Dải Số” . Những tác phẩm “không theo Dải Số” có thể sẽ bị coi là “thất niêm” bởi những người trung thành với dải số. Tiếng “phá cách” thì họ để dành gọi những tác phẩm của các đại thi nhân tiền bối đời Đường với câu “Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật”. Thơ của bọn mình thì chưa có cái vinh hạnh được gọi là thơ phá cách !

Nhưng việc gọi những bài thơ nằm ngoài dải số là thơ “thất niêm, phá cách hay thơ Cổ Phong” là một sự sai lầm hoàn toàn.

Phần trình bày về 16 cách chơi “theo Đường Thi” trên đây đã chứng tõ rằng đó là những bài thơ Đường Luật. Dải số không bao gồm được hết 16 cách Niêm Luật ấy, thì đó là việc của dải số.

Vậy : CHÍNH DANH “ĐƯỜNG LUẬT” LÀ ĐÂU ?

Chắc mọi người đều đồng ý với Quách-Tấn trong định nghĩa trích dẫn sau đây :

“Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng Thơ.”
(trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 38)

* những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công thì hẳn là phải lấy từ các bài Đường Thi còn lưu truyền đến nay.

Và cách chơi “theo Đường Thi” mô tả trên đây chỉ là “thấy sao nói vậy” về những kinh nghiệm kỹ thuật đã thành công của thi nhân đời Đường.

Đường Luật lấy ra từ phần kỹ thuật của Đường Thi là như thế.

Còn việc sau đó Đường Luật bị thay đổi do nhu cầu nọ kia (ví dụ như do nhu cầu chấm thi của giới quan trường) để trở thành Đường Luật mà dải số đang theo thì đó là việc khác.
Nếu cần chính danh cho dải số thì đó là việc của những người theo dải số.
Rất có thể là có một đạo luật nào đó của triều đình đã quy định những điều phải học về thơ Đường là như vậy.

Nhưng dù sao thì cũng xin nêu lại những điểm vô lý đã ăn sâu vào quan điểm của khá nhiều người, khi gọi những bài thơ Đường chính thống ấy là Thất Niêm, Phá Cách, hay thơ Cổ Phong như sau :

* sao gọi được là “thất Niêm” khi bài thơ sử dụng 2 phép Niêm chính thống của thơ tứ cú là 1-4 2-3 và 1-3 2-4 ? Dải số cũng dùng 1 trong hai phép Niêm đó (1-4 2-3) thì sao ? Chỉ có thể gọi là thất Niêm khi trong phần tứ cú, câu 1 niêm với câu 2 (1-2), hoặc câu 3 niêm với câu 4 (3-4), hoặc cả 4 câu 1-2-3-4 đều cùng theo một luật (1-2-3-4).
* sao gọi được là ‘phá cách’ khi những cách chơi đa dạng đều đi theo một nguyên tắc rõ ràng là : cho phép hai phần tứ cú được tự do theo Niêm, theo Luật khác nhau, với sự pha trộn mọi cách Niêm + Luật. Không biết dải số căn cứ vào đâu mà chỉ dùng 2 trong số 16 cách Niêm + Luật trên lý thuyết của Đường Thi. Đường Thi là gốc, đáng lẽ dải số phải theo. Nhưng vì một lý do gì đó mà dải số không theo. Vậy sự “phá cách” chính là do dải số.
* Những đặc điểm của thơ Cổ Phong là : được dùng nhiều vần, được dùng số câu khác nhau 6, 8, 10, 12, không cần có đối, không cần theo Niêm Luật. Vậy tại sao trong số bị gọi là thơ Cổ Phong lại chẳng có bài nào có 2 vần ? chẳng có bài nào có số câu là 6, 10, 12 ? chẳng có bài nào không có đối ở các cặp 3-4 và 5-6 của bài bát cú ? chẳng có bài nào có được vài câu với nhì-tứ-lục chẳng phân minh một cách hiển nhiên? (không kể những câu tác giả cố ý bỏ luật 1 chữ để bảo toàn ý nghĩa).

Ngày nay thơ Đường chỉ dùng cho sự tiêu khiển của những người yêu thơ. Mọi người tự do chọn hướng đi của mình.
Chẳng ai đả kích người chơi theo dải số. Họ có thể được hoan hô với chủ trương thích tìm cái khó để chơi, để trao dồi…..
Còn sự gieo tiếng xấu cho Đường Thi là “thất Niêm, phá cách, thơ Cổ Phong” cũng chẳng biết do đâu, nhưng cũng chẳng có gì quan trọng.
Vì những sự phân tách mỗ xẻ phần kỹ thuật Đường Thi, như vừa lập lại trên đây, đã cho thấy rõ ràng đâu là sự thật đâu là ác ý.

Sự làm thơ cốt là để giúp chúng ta vui chơi trong sự thoải mái. Mà thơ thì có nhiều khuynh hướng khác nhau.

Ai muốn làm thơ theo dải số thì cứ theo. Ai muốn làm thơ theo Đường Thi thì cũng không ai cấm cản.

Và có một điểm chung quan trọng : là mọi người đều có bổn phận cống hiến cho Làng thơ những bài thơ hay để thưởng thức.

Rất cám ơn quý bạn Đồng Lão, Vũ Kim Thanh, Trần Mạnh Hùng, Hàn Phong, Vancali, Thi Nang và Chí Trung đã soạn giúp cho những cặp 2 câu thơ dùng trong phần giải thích trên.

Thân ái chào tất cả quý bạn đã bỏ công ra đọc bài này.

Lá chờ rơi 23/08/09

&&&&&&&&

Phụ lục :

Nguyên văn những bài thơ chỉ mới kê tên nơi phía trên :
(trong ngoặc : các con số là phép Niêm của từng phần tứ cú, Bằng hay Trắc là Luật của phần tứ cú đó.)

1.a KHÚC GIANG NHỊ THỦ - kỳ nhị (1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Bằng)

Triều hồi nhật nhật điển xuân y
Mỗi nhật giang đầu tận túy quy
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hi
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển = bỏ luật chữ thứ 6
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.
Ðỗ Phủ

BÀI THƠ TRÊN SÔNG KHÚC GIANG (bài hai)

Mỗi buổi chầu lui thường cố áo (cố = cầm cố)
Bên sông say khướt mới ra về
Vài ba nợ rượu đâu không có
Bẩy chục đời người dễ mấy khi
Cánh bướm vờn hoa bay thấp thoáng
Ðuôi chuồn giỡn nước kéo lê thê
Xưa nay quang cảnh cùng thay đổi
Ðược lúc vui chơi há ngại gì.
Bùi Khánh Ðản

1.b HÀ TIỆN (1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Trắc)

Giàu thì ba bữa khó thì hai
Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy
Nón đổi lá ngoài quần đổi ống
Dép thay da mặt túi thay quai
Dặn vợ có cà đừng gắp mắm
Bảo con bớt gạo bỏ thêm khoai
Thế gian mặc kẻ cười hà tiện
Ta chẳng phiền ai chẳng lụy ai.
Nguyễn-Minh-Triết

1.c VĂN LÂN GIA LÝ TRANH (1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Bằng)

Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan
Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan
Hốt văn họa các Tần tranh dật
Tri thị lân gia Triệu nữ đàn
Khúc thành hư ức song nga liễm
Điệu cấp giao liên ngọc chỉ hàn
Ngân thược trùng quan thính vị tịch
Bất như miên khứ mộng trung khan.
Từ An Trinh

NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM

Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan
Buồn trong trăng sáng ý mơ màng
Chợt nghe gác họa âm Tần vọng
Mới biết nhà bên gái Triệu đàn
Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc
Điệu mau e buốt ngón tay vàng
Lắng nghe then khóa còn chưa mở
Ngủ quách may ra mộng gặp nàng.
Đinh Vũ Ngọc

1.d KHÚC GIANG ĐỐI TỬU (1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Trắc)

Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy
Thủy tinh cung điện chuyển phi vi
Ðào hoa tế trục dương hoa lạc
Hoàng điểu thời kiêm bạch điểu phi
Túng ẩm cửu biền nhân cộng khí
Lãn triều chân dữ thế tương vi
Lại tình cánh giác Thương Châu viễn
Lão đại đồ thương vị phất y.
Ðỗ Phủ

UỐNG RƯỢU TRÊN SÔNG KHÚC GIANG

Ngồi mãi bên vườn bến Khúc Giang
Thủy tinh cung điện bóng mờ gương
Hoa tơi tả rụng đào chen liễu
Chim nhởn nhơ bay trắng lẩn vàng
Chén rượu thường say người đã chán
Phiên chầu vẫn trễ tiếng còn mang
Biết rằng hoạn lộ xa tiên cảnh
Tuổi tác chưa về nghĩ tự thương.
Bùi Khánh Ðản

2.a ÐỘC TIỂU THANH KÝ (1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Bằng)

Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư
Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Nguyễn-Du

2.b TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng)

Hoàng điểu phiêu phiêu dương liễu thùy
Xuân phong tống khách sử nhân bi
Oán biệt tự kinh thiên lý ngoại
Luân giao khước ức thập niên thì
Vân khai Mấn Thủy cô phàm viễn
Lộ nhiễu Lương Sơn thất mã trì
Thử địa tòng lai khả thừa hứng = bỏ luật chữ thứ 6
Lưu quân bất trú ích thê kỳ.
Cao Thích

TIỄN ĐƯA QUA THIẾU PHỦ - LÝ THẨM HUYỆN TIỀN VỆ

Vút giọng oanh vàng tơ liễu buông
Gió xuân tiễn khách dạ sầu thương
Chia ly ngàn dặm bao đau xót
Gắn bó mười năm mấy vấn vương
Mấn Thủy mây giăng buồm lẻ bóng
Lương Sơn ngựa chậm núi chen đường
Nơi đây ngày trước cùng vui thú
Chẳng giữ chân anh thật đáng buồn !
Đinh Vũ Ngọc

2.c ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN (1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Bằng)

Lệ tận giang lâu vọng Bắc quy
Điền viên dĩ hãm bách trùng vi
Bình vô vạn lý hà nhân khứ
Lạc nhật thiên sơn không điểu phi
Cô chu dạng dạng hàn triều tiểu
Cực phố thương thương viễn thụ vi
Bạch âu ngư phủ đồ tương đãi
Vị tảo Sam Thương lãn tức ky.
Lưu Trường Khanh

LÊN LẦU TRẠM TÙNG GIANG - TRÔNG VỀ QUÊ PHƯƠNG BẮC

Lầu sông lệ cạn trông về Bắc
Vườn ruộng trăm vòng chịu bủa vây
Vạn dặm đồng không người chẳng đến
Nghìn non chiều xuống chim còn bay
Thuyền đơn thấp thoáng triều se lạnh
Bến cũ xanh xanh cây mọc dày
Âu trắng ngư ông xin hãy đợi
Chưa qua hoạn nạn khó về ngay.
Đinh Vũ Ngọc

2.d SỐNG ĐỜI TIÊN (1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Trắc)
(thân tặng Thảo My)

Có một nàng thơ đang ngủ yên
Say nồng quên tỉnh giấc cô miên
Đầu xuân nên tránh tìm thương ghét
Sắp Tết đừng quên chúc bạc tiền
Ông muốn ăn nem nhiều kẻ trách
Bà không nếm chả chẳng ai phiền
Chín bỏ làm mười hung hóa kiết
Gìn lòng “vô hận” kiếp thần tiên*.
Lá chờ rơi 23/01/08
* nhẫn nhẫn nhẫn, vô hận thần tiên tùng thử đắc ! (Minh Tâm Bửu Giám)

3.a KÝ THÔI THỊ NGỰ (1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 Bằng)

Uyển khê sương dạ thính viên sầu
Khứ quốc trường như bất hệ châu
Độc liên nhất nhạn phi Nam độ
Khước tiện song khê giải Bắc lưu
Cao nhân lũ giải Trần Phồn tháp
Quá khách nan đăng Tạ Diễu lâu
Thử xứ biệt ly đồng lạc diệp
Triêu triêu phân tán Kính Đình thu.
Lý Bạch

GỬI QUAN THỊ NGỰ HỌ THÔI

Vượn khóc đêm sương xứ uyển khê
Như thuyền không buộc mãi xa quê
Nhạn đành lẻ một phương Nam đến
Suối chẳng chung đôi đất Bắc về
Hạ chỏng Trần Phồn còn lắm kẻ
Leo lầu Tạ Diễu khó trăm bề
Nơi đây lá rụng cùng chia biệt
Núi Kính Đình thu vẫn cách ly.
Đinh Vũ Ngọc

3.b ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI (1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng)

Phượng Hoàng Ðài thượng phượng hoàng du
Phượng khứ đài không giang tự lưu
Ngô cung hoa thảo mai u kính
Tấn đại y quan thành cổ khâu
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
Nhị thủy trung phân bạch lộ châu
Tổng vị phù vân năng tế nhật
Trường An bất kiến sử nhân sầu.
Lý Bạch

LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG

Chim Phượng hoàng chơi lầu Phượng hoàng
Phượng bay lầu trống với trường giang
Cung Ngô hoa cỏ con đường rậm
Thời Tấn xiêm y nấm mộ tàn
Ngọn núi Tam Sơn trời xẻ nửa
Dòng sông Nhị Thủy bãi chia ngang
Ô hay mây nổi che trời sáng
Chẳng thấy Trường An sầu chứa chan.
Đinh Vũ Ngọc

3.c HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng)

Dao lạc thâm tri Tống Ngọc bi
Phong lưu nho nhả diệc ngô sư
Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ
Tiêu điều dị đại bất đồng thì
Giang san cố trạch không văn tảo
Vân vũ hoang đài khởi mộng tư
Tối thị Sở cung câu dẫn diệt
Châu nhân chỉ điểm đáo kim nghi.
Đỗ Phủ

NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI

Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi
Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi
Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ
Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời
Sông núi nhà xưa văn vẻ đó
Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi
Thương thay cung Sở tiêu tan hết
Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ.
Đinh Vũ Ngọc

3.d DĨ HÒA VI QUÝ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Trắc)

Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu
Làm chi cho có sự đôi co
Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn
Ðấy rằng đấy phải đấy không thua
Duật nọ hãy còn đua đến bạng
Lươn kia hầu dễ kém chi cò
Chữ rằng : Nhân dĩ hòa vi quý
Vô sự thì hơn khỏi phải lo.
Nguyễn-Bỉnh-Khiêm

4.a CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc)

Chước tửu dữ quân quân tự khoan
Nhân tình phiên phúc tự ba lan
Bạch thủ tương tri do án kiếm
Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan
Thảo sắc toàn kinh tế vũ thấp
Hoa chi dục động xuân phong hàn
Thế sự phù vân hà túc vấn
Bất như cao ngọa thả gia xan.
Vương Duy

RÓT RƯỢU MỜI BÙI DỊCH

Mời anh cạn chén để nguôi sầu
Tráo trở tình đời khác sóng đâu
Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm
Cửa son hiển đạt lại cười nhau
Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới
Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu
Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi
Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu.
Đinh Vũ Ngọc

4.b VUI XUÂN CON TRÂU (1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Trắc)

Không chờ chẳng đợi cũng nhanh qua
Tiễn chuột mừng trâu đến viếng nhà
Vui Xuân hý hoạ vài câu đối
Đón Tết nhâm nhi mấy chén trà
Xúc cảnh lời vàng bay bỗng mãi
Tri tình bút ngọc toả lan xa
Nắn nót bài thơ xin chúc Bác
Thi ca đám trẻ chạy theo già.
Sương Anh

4.c BÁC LÁ YÊU DẤU ! (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Bằng)

Bác Lá vui đùa bạn hữu đông
Ông đi vắng lặng hỏi buồn không ?
Chỉ lối ngay đường thường đụng chạm
Lời ngay nẻo phải khó tương đồng
Tình ơi kính Lão đời thanh thản
Bạn hởi thương người nước đục trong
Chờ Rơi ở lại đừng xa nhé
Bé tịt hồn thơ muối xát lòng.
Vancali 9.23.08

4.d ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc)

Đỗ Lăng hiền nhân thanh thả liêm (bỏ Luật ở chữ Lăng
Đông Khê bốc trúc tuế thời yêm
Trạch cận thanh sơn đồng Tạ Diễu
Môn thùy bích liễu tự Đào Tiềm
Hảo điểu nghinh xuân ca hậu viện
Phi hoa tống tửu vũ tiền thiềm
Khách đáo đãn tri lưu nhất túy
Bàn trung chi hữu thủy tinh diêm.
Lý Bạch

ĐỀ CHỖ Ở ẨN CỦA ĐÔNG KHÊ CÔNG

Đỗ Lăng đã nổi tiếng người hiền
Về ẩn Đông Khê trải mấy niên
Nhà cận núi xanh như Tạ Diễu
Cửa buông liễu biếc tựa Đào Tiềm
Đón xuân chim quý ca sau viện
Mời rượu hoa bay múa trước hiên
Khách đến nài nhau say một bữa
Trong mâm chỉ có muối tinh nghiền.
Đinh Vũ Ngọc

***********

< Sửa đổi bởi: lá chờ rơi -- 4.9.2009 13:08:28 >

Lá chờ rơi
_____________________________
sưu tầm
 
Sửa lần cuối:
Đ

Đoàn Minh Trung

Gió thổi dừa rơi
23/12/06
935
24
18
TX Bến Tre
Căn cứ ý kiến đề nghị của Bác Lá, Chialy1904 xin thay bài viết "GÁNH VÀNG ÐEM ÐỖ SÔNG NGÔ trong thơ Ðường Luật" bằng một bài viết mới do Bác Lá cung cấp mang tên: "NHÌN LẠI NHỮNG BÀI THƠ GỌI LÀ PHÁ CÁCH"

NHÌN LẠI NHỮNG BÀI THƠ GỌI LÀ PHÁ CÁCH

trước xin trích những dòng của Quách-Tấn …

Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng thơ … (Quách-Tấn)

Theo giải thích trên đây của Quách-Tấn thì sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công của thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Thi đã sinh ra Đường Luật là những khuôn phép chung cho làng thơ dùng.

Nhưng hiện có chuyện ngược ngạo là bộ Đường Luật hiện tại, với dải số kiểm soát 1-8 2-3 4-5 6-7 đã khiến cho có một số lớn bài Đường Thi của các đại thi gia danh tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ bị xếp vào hạng « thất Niêm » !

Để khai thông sự lỉnh kỉnh nêu trên, xin mời quý bạn đi sâu vào phần kỹ thuật dùng trên những bài bát cú Đường Thi để may ra tìm hiểu được lý do.
Những chi tiết nêu ra dưới đây đều lấy từ những bài thơ gốc Đường thi chính cống.

Quan sát và phân tích phần kỹ thuật của Đường Thi thì thấy như sau :

1/ thi nhân đời Đường sử dụng hai loại Niêm khác nhau của thơ tứ cú là 1-4 2-3 và 1-3 2-4 một cách riêng rẻ cho 4 câu trên và 4 câu dưới của bài bát cú.

Xin trình bày hai loại Niêm vừa nói của thơ tứ cú :
Niêm theo 1-4 2-3 như :
MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN

Mục túc phong biên phùng lập xuân
Hồ Lư hà thượng lệ triêm cân
Khuê trung chỉ thị không tương ức
Bất kiến sa trường sầu sát nhân.
Sầm Tham
(xin nhắc luôn : về Luật thì bài trên đây theo Luật Trắc)

Niêm theo 1-3 2-4 như :
VỊ THÀNH KHÚC

Vị thành triêu vũ ấp khinh trần
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.
Vương Duy
(xin nhắc luôn : về Luật thì bài trên đây theo Luật Bằng)

Hai phép Niêm này (1-4 2-3 và 1-3 2-4) khi áp dụng vào bài bát cú thì cho ra 4 kiểu bát cú khác nhau là :
bát cú có 4 câu trên và 4 câu dưới đều dùng phép Niêm 1-4 2-3
bát cú có 4 câu trên và 4 câu dưới đều dùng phép Niêm 1-3 2-4
bát cú có 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3 và 4 câu dưới theo Niêm 1-3 2-4
và bát cú có 4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4 với 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3

2/ thi nhân đời Đường lại cho phép 4 câu trên có thể khác Luật với 4 câu dưới.
Nên về Luật cũng có 4 kiểu bát cú khác nhau như sau :
bát cú có 4 câu trên và 4 câu dưới đều dùng Luật Bằng
bát cú có 4 câu trên và 4 câu dưới đều dùng Luật Trắc
bát cú có 4 câu trên Luật Trắc và 4 câu dưới Luật Bằng
và bát cú có 4 câu trên Luật Bằng với 4 câu dưới Luật Trắc

Pha trộn 2 phần Niêm và Luật trên đây, thì trên lý thuyết có 16 kiểu (Niêm+Luật) thơ Đường Luật khác nhau.

Những bài Đường Thi mang cách chơi nói trên :
Trong phần này xin chỉ nêu tên các bài thơ : (nguyên văn và bản dịch sẽ cho ở phần sau)

hai bài tứ cú Niêm khác nhau Luật giống nhau :
KÝ THÔI THỊ NGỰ của Lý Bạch
ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI của Lý Bạch
4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng

hai bài tứ cú Niêm khác nhau Luật cũng khác nhau :
ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN của Lưu Trường Khanh
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng

HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ của Đỗ Phủ
TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ của Cao Thích
4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng

hai bài tứ cú Niêm giống nhau (1-4 2-3) Luật khác nhau :
DẠ BIỆT VI TU SĨ của Cao Thích
VĂN LÂN GIA LÝ TRANH của Từ An Trinh
BÁN NHẬT THÔN của Tiền Khởi
KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ của Lưu Vũ Tích
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng

hai bài tứ cú Niêm giống nhau (1-3 2-4) Luật giống nhau :
(Thất Niêm vì phép Niêm 1-3 2-4 không hề được dùng đến trong dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy
ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch
4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc

Xin lưu ý : những bài trên đây đều bị dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 coi là thất Niêm.
Vì dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ chấp nhận :

những bài bát cú có hai bài tứ cú Niêm giống nhau (1-4 2-3) và Luật giống nhau như :
KHÚC GIANG ÐỐI TỬU của Đỗ Phủ
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc

KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị) của Đỗ Phủ
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng

Nguyên văn (và bản dịch) các bài Đường Thi vừa kể trên :

hai bài tứ cú Niêm khác nhau Luật giống nhau :
KÝ THÔI THỊ NGỰ
trên 1-3 2-4 luật Bằng + dưới 1-4 2-3 luật Bằng

Uyển khê sương dạ thính viên sầu (Niêm 1-3 2-4
Khứ quốc trường như bất hệ châu
Độc liên nhất nhạn phi Nam độ
Khước tiện song khê giải Bắc lưu
Cao nhân lũ giải Trần Phồn tháp (Niêm 1-4 2-3
Quá khách nan đăng Tạ Diễu lâu
Thử xứ biệt ly đồng lạc diệp
Triêu triêu phân tán Kính Đình thu.
Lý Bạch

GỬI QUAN THỊ NGỰ HỌ THÔI

Vượn khóc đêm sương xứ uyển khê
Như thuyền không buộc mãi xa quê
Nhạn đành lẻ một phương Nam đến
Suối chẳng chung đôi đất Bắc về
Hạ chỏng Trần Phồn còn lắm kẻ
Leo lầu Tạ Diễu khó trăm bề
Nơi đây lá rụng cùng chia biệt
Núi Kính Đình thu vẫn cách ly.
Đinh Vũ Ngọc

ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI
trên 1-3 2-4 luật Bằng + dưới 1-4 2-3 luật Bằng

Phượng Hoàng Ðài thượng phượng hoàng du (Niêm 1-3 2-4
Phượng khứ đài không giang tự lưu
Ngô cung hoa thảo mai u kính
Tấn đại y quan thành cổ khâu
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại (Niêm 1-4 2-3
Nhị thủy trung phân bạch lộ châu
Tổng vị phù vân năng tế nhật
Trường An bất kiến sử nhân sầu.
Lý Bạch

LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG

Chim Phượng hoàng chơi lầu Phượng hoàng
Phượng bay lầu trống với trường giang
Cung Ngô hoa cỏ con đường rậm
Thời Tấn xiêm y nấm mộ tàn
Ngọn núi Tam Sơn trời xẻ nửa
Dòng sông Nhị Thủy bãi chia ngang
Ô hay mây nổi che trời sáng
Chẳng thấy Trường An sầu chứa chan.
Đinh Vũ Ngọc

hai bài tứ cú Niêm khác nhau Luật cũng khác nhau :
ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-3 2-4 luật Bằng


Lệ tận giang lâu vọng Bắc quy (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Điền viên dĩ hãm bách trùng vi
Bình vô vạn lý hà nhân khứ
Lạc nhật thiên sơn không điểu phi
Cô chu dạng dạng hàn triều tiểu (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Cực phố thương thương viễn thụ vi
Bạch âu ngư phủ đồ tương đãi
Vị tảo Sam Thương lãn tức ky.
Lưu Trường Khanh

LÊN LẦU TRẠM TÙNG GIANG - TRÔNG VỀ QUÊ PHƯƠNG BẮC

Lầu sông lệ cạn trông về Bắc
Vườn ruộng trăm vòng chịu bủa vây
Vạn dặm đồng không người chẳng đến
Nghìn non chiều xuống chim còn bay
Thuyền đơn thấp thoáng triều se lạnh
Bến cũ xanh xanh cây mọc dày
Âu trắng ngư ông xin hãy đợi
Chưa qua hoạn nạn khó về ngay.
Đinh Vũ Ngọc

HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ
trên 1-3 2-4 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng

Dao lạc thâm tri Tống Ngọc bi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Phong lưu nho nhả diệc ngô sư
Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ
Tiêu điều dị đại bất đồng thì
Giang san cố trạch không văn tảo (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Vân vũ hoang đài khởi mộng tư
Tối thị Sở cung câu dẫn diệt
Châu nhân chỉ điểm đáo kim nghi.
Đỗ Phủ

NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI

Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi
Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi
Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ
Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời
Sông núi nhà xưa văn vẻ đó
Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi
Thương thay cung Sở tiêu tan hết
Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ.
Đinh Vũ Ngọc

TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ
trên 1-3 2-4 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng

Hoàng điểu phiêu phiêu dương liễu thùy (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Xuân phong tống khách sử nhân bi
Oán biệt tự kinh thiên lý ngoại
Luân giao khước ức thập niên thì
Vân khai Mấn Thủy cô phàm viễn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Lộ nhiễu Lương Sơn thất mã trì
Thử địa tòng lai khả thừa hứng
Lưu quân bất trú ích thê kỳ.
Cao Thích

TIỄN ĐƯA QUA THIẾU PHỦ - LÝ THẨM HUYỆN TIỀN VỆ

Vút giọng oanh vàng tơ liễu buông
Gió xuân tiễn khách dạ sầu thương
Chia ly ngàn dặm bao đau xót
Gắn bó mười năm mấy vấn vương
Mấn Thủy mây giăng buồm lẻ bóng
Lương Sơn ngựa chậm núi chen đường
Nơi đây ngày trước cùng vui thú
Chẳng giữ chân anh thật đáng buồn !
Đinh Vũ Ngọc

hai bài tứ cú Niêm giống nhau (1-4 2-3) Luật khác nhau :
DẠ BIỆT VI TU SĨ
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng

Cao quán trương đăng tửu phục thanh (Luật Trắc
Dạ chung tàn nguyệt nhạn quy thanh
Chỉ ngôn đề điểu kham cầu lữ
Vô ná xuân phong dục tống hành
Hoàng hà khúc lý sa vi ngạn (Luật Bằng
Bạch mã tần biên liễu hướng thành
Mạc oán tha phương tạm ly biệt
Tri quân đáo xứ tẫn phùng nghinh.
Cao Thích

ĐÊM TỪ BIỆT QUAN TU SĨ HỌ VI

Cao quán giăng đèn bày tiệc rượu
Trăng khuya chuông vọng nhạn về mau
Tiếng chim đêm gọi như tìm bạn
Ngọn gió xuân vờn để tiễn nhau
Lấn cát Hoàng Hà dòng uốn khúc
Hướng thành Bạch mã liễu tươi màu
Chớ buồn đất khách cùng chia biệt
Anh đến nơi đâu chẳng đón chào !
Đinh Vũ Ngọc

VĂN LÂN GIA LÝ TRANH
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng

Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan (Luật Trắc
Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan
Hốt văn họa các Tần tranh dật
Tri thị lân gia Triệu nữ đàn
Khúc thành hư ức song nga liễm (Luật Bằng
Điệu cấp giao liên ngọc chỉ hàn
Ngân thược trùng quan thính vị tịch
Bất như miên khứ mộng trung khan.
Từ An Trinh

NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM

Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan
Buồn trong trăng sáng ý mơ màng
Chợt nghe gác họa âm Tần vọng
Mới biết nhà bên gái Triệu đàn
Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc
Điệu mau e buốt ngón tay vàng
Lắng nghe then khóa còn chưa mở
Ngủ quách may ra mộng gặp nàng.
Đinh Vũ Ngọc

BÁN NHẬT THÔN
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng

Bán Nhật ngô thôn đới vãn hà (Luật Trắc
Nhàn môn cao liễu loạn phi nha
Hoành vân lĩnh ngoại thiên trùng thụ
Lưu thủy thanh trung nhất lưỡng gia
Sầu nhân tạc dạ tương tư khổ (Luật Bằng
Nhuận nguyệt kim niên xuân ý xa
Tự thán Mai Sinh đầu tự tuyết
Khước liên Phan Lệnh huyện như hoa.
Tiền Khởi

THÔN BÁN NHẬT

Ráng tỏa trời chiều Bán Nhật thôn
Chim bay liễu rủ trước nhàn môn
Ngàn trùng cây núi làn mây phủ
Vài nóc nhà bên suối nước tuôn
Ðêm trước người buồn vương nhớ mãi
Năm nay tháng nhuận ý xuân dồn
Ðã thương Phan Lệnh hoa đầy huyện
Ðầu bạc Mai Sinh lại xót hơn.
Bùi Khánh Ðản

KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng

Nam quốc sơn xuyên cựu đế kỳ (Luật Trắc
Tống đài Lương tạ thượng y hi
Mã tê cổ thụ hành nhân yết
Mạch tú hoang thành dã trĩ phi
Phong xuy lạc diệp điền cung tỉnh (Luật Bằng
Hoả nhập hoang lăng hóa bảo y
Ðồ sử Từ thần Dữu Khai phủ
Hàm Dương chung nhật khổ tư quy.
Lưu Vũ Tích

ÐẠO KINH NAM HOÀI CỔ

Ðô cũ miền Nam ở chốn này
Ðình Lương đài Tống dấu còn đây
Cây cao ngựa hí hành nhân vắng
Lúa tốt thành hoang dã trĩ bay
Lăng cũ áo bào mồi lửa đốt
Cung xưa giếng ngự lá thu đầy
Lòng quê cám cảnh Từ thần Dữu
Ở đất Hàm Dương nhớ suốt ngày.
Bùi Khánh Ðản

hai bài tứ cú Niêm giống nhau (1-3 2-4) Luật giống nhau :
(Thất Niêm vì phép Niêm 1-3 2-4 không hề được dùng đến trong dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)

CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy
trên 1-3 2-4 luật Trắc + dưới 1-3 2-4 luật Trắc

Chước tửu dữ quân quân tự khoan (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Nhân tình phiên phúc tự ba lan
Bạch thủ tương tri do án kiếm
Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan
Thảo sắc toàn kinh tế vũ thấp (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Hoa chi dục động xuân phong hàn
Thế sự phù vân hà túc vấn
Bất như cao ngọa thả gia xan.
Vương Duy

RÓT RƯỢU MỜI BÙI DỊCH

Mời anh cạn chén để nguôi sầu
Tráo trở tình đời khác sóng đâu
Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm
Cửa son hiển đạt lại cười nhau
Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới
Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu
Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi
Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu.
Đinh Vũ Ngọc

ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ
trên 1-3 2-4 luật Trắc + dưới 1-3 2-4 luật Trắc

Đỗ Lăng hiền nhân thanh thả liêm (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc, bỏ Luật chữ ‘Lăng’
Đông Khê bốc trúc tuế thời yêm
Trạch cận thanh sơn đồng Tạ Diễu
Môn thùy bích liễu tự Đào Tiềm
Hảo điểu nghinh xuân ca hậu viện (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Phi hoa tống tửu vũ tiền thiềm
Khách đáo đãn tri lưu nhất túy
Bàn trung chi hữu thủy tinh diêm.
Lý Bạch

ĐỀ CHỖ Ở ẨN CỦA ĐÔNG KHÊ CÔNG

Đỗ Lăng đã nổi tiếng người hiền
Về ẩn Đông Khê trải mấy niên
Nhà cận núi xanh như Tạ Diễu
Cửa buông liễu biếc tựa Đào Tiềm
Đón xuân chim quý ca sau viện
Mời rượu hoa bay múa trước hiên
Khách đến nài nhau say một bữa
Trong mâm chỉ có muối tinh nghiền.
Đinh Vũ Ngọc

Nhắc lại những bài trên đây đều bị dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 coi là thất Niêm.
Dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ chấp nhận những bài Đường Thi cùng loại với hai bài dưới đây :

Loại bát cú Đường Thi được dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chấp nhận :

KHÚC GIANG ÐỐI TỬU
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Trắc

Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Thủy tinh cung điện chuyển phi vi
Ðào hoa tế trục dương hoa lạc
Hoàng điểu thời kiêm bạch điểu phi
Túng ẩm cửu biền nhân cộng khí (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Lãn triều chân dữ thế tương vi
Lại tình cánh giác Thương Châu viễn
Lão đại đồ thương vị phất y.
Ðỗ Phủ

UỐNG RƯỢU TRÊN SÔNG KHÚC GIANG

Ngồi mãi bên vườn bến Khúc Giang
Thủy tinh cung điện bóng mờ gương
Hoa tơi tả rụng đào chen liễu
Chim nhởn nhơ bay trắng lẩn vàng
Chén rượu thường say người đã chán
Phiên chầu vẫn trễ tiếng còn mang
Biết rằng hoạn lộ xa tiên cảnh
Tuổi tác chưa về nghĩ tự thương.
Bùi Khánh Ðản

KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị)
trên 1-4 2-3 luật Bằng + dưới 1-4 2-3 luật Bằng

Triều hồi nhật nhật điển xuân y (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Mỗi nhật giang đầu tận túy quy
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hi
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.
Ðỗ Phủ

HAI BÀI THƠ TRÊN SÔNG KHÚC GIANG (bài hai)

Mỗi buổi chầu lui thường cố áo
Bên sông say khướt mới ra về
Vài ba nợ rượu đâu không có
Bẩy chục đời người dễ mấy khi
Cánh bướm vờn hoa bay thấp thoáng
Ðuôi chuồn giỡn nước kéo lê thê
Xưa nay quang cảnh cùng thay đổi
Ðược lúc vui chơi há ngại gì.
Bùi Khánh Ðản

Tóm lại dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ dùng 2 trong số 16 phép Niêm lý thuyết trong cách chơi của thi nhân đời Đường.
Bị gọi thất Niêm là những bài thơ nằm trong số 14 phép Niêm còn lại.

Vì nhận thấy số bị coi là thất Niêm quá nhiều nên Quách-Tấn cũng không đồng ý với cách giải thích « đại gia văn chương bất câu Niêm Luật » :

’’ Có người trông thấy những bài thơ Thất Niêm Thất Luật phần nhiều là của các danh gia, cho nên bảo « Ðại gia văn chương bất câu Niêm Luật ». Sự thật, niêm luật đối với người đã thạo nghề chẳng khác những đường mòn trong xóm đối với người địa phương, muốn đi cho đúng có khó khăn gì. Thiết tưởng sự Thất Niêm Thất Luật kia là cố tình chớ không phải sơ ý. Tất có lý do. Nhưng dù chi chi đi nữa, chúng ta - kẻ hậu học - vẫn không nên bắt chước.’’ (trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 168)

Tuy chưa thấy cái lý do, nhưng Quách-Tấn vẫn quả quyết là « việc dùng Niêm/Luật theo những cách ấy tất có lý do ». Và cái lý do đó chúng ta đã thấy như trên : « Hai bài tứ cú của bài bát cú được phép dùng Niêm và Luật khác nhau. »

Vì lý do khó chấp nhận câu « Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật » nên một số khác tìm cách gán ép gọi những bài đó là thơ Cổ Phong :

Để có thể gọi những bài Đường thi đó là thơ Cổ Phong, người ta dùng một bài thơ Đường luật làm mẫu, sau khi thêm vào 1 chữ khiến cho câu đầu (lục ngôn thể) bị nát bét về Luật.

Đó là bài « Vịnh Dế Duỗi » của Tú Quỳ.

Câu đầu dùng lục ngôn thể là : « Kiến chẳng kiến, voi chẳng voi »
Ý tác giả muốn nói rằng con dế duỗi chẳng nhỏ như con kiến, mà cũng chẳng to như con voi.

Người ta thêm vào một chữ ‘phải’ : « Kiến chẳng phải kiến voi chẳng voi »
khiến cho ba chữ nhì tứ lục đều là Trắc.
Trong khi đó nếu thêm đúng ý tác giả là : « Kiến chẳng kiến mà voi chẳng voi »
thi câu thơ sẽ có ba chữ nhì tứ lục phân minh.

Nhận xét từng câu của bài thơ Vịnh Dế Duỗi so với thơ Cổ Phong thì thấy như sau :

VỊNH DẾ DUỖI

Kiến chẳng kiến (mà) voi chẳng voi - lục ngôn thể nếu bỏ chữ (mà)
Ðời sanh dế duổi cũng choi choi (nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Ngắn cánh lên trời không đủ sức ) - nhì tứ lục phân minh, đối tốt
Co tay vạch đất cũng khoe tài ) - nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Mưa tuôn gió tạt lên cao ở } (nhì tứ lục phân minh, đối tốt
Lửa bỏng dầu sôi nhảy đến chơi } (nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Quân tử có thương thời chớ phụ - nhì tứ lục phân minh
Ðể cho bay nhảy thử mà coi. - nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Tú Quì

Đây đúng là một bài thơ Đường Luật, vì trong mỗi câu các chữ nhì tứ lục đều phân minh, hai cặp 3-4 và 5-6 đối nhau chỉnh tề, toàn bài chỉ dùng có một vần, và chỉ dùng 8 câu. (Chỉ có phần Niêm không theo dải số 1-8 ….)

Còn thơ Cổ Phong thất ngôn (7 chữ mỗi câu) đúng theo định nghĩa thì phải là :

- toàn bài có thể dùng 6, 8, 10, 12 câu (vậy tại sao không chọn bài mẫu khác hơn 8 câu ?)
- toàn bài có thể dùng nhiều vần (vậy tại sao không chọn bài mẫu có hơn một vần ?)
- không cần phải đối (vậy tại sao không chọn bài mẫu không có đối ?)
- không cần theo Niêm Luật (vậy tai sao không chọn bài mẫu với nhì tứ lục chẳng phân minh ?

Như trên vừa cho thấy : bài Vịnh Dế Duỗi không mang một đặc điểm riêng nào của thơ Cổ Phong. Nhưng người ta vẫn gượng ép dùng nó để có thể xếp vào loại thơ Cổ Phong những bài Đường thi không theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7.

Tìm hiểu nguyên nhân phát sinh ra dải số 1-8 2-3 4-5 6-7

Dải số đó tương ứng với hai cách Niêm thông dụng và có nhiều bài nhất, của loại thơ Thất ngôn bát cú Đường Thi.
Ở thời khoa cử, người ta có lý do để qui định cho các sĩ tử chỉ dùng hai thể thơ thông dụng nhất đó thôi.
Vì nếu áp dụng tất cả kỹ thuật nêu trên của Đường Thi, với 16 cách Niêm trên lý thuyết, thì việc chấm thi sẽ rất phiền toái và mất nhiều thì giờ.

Nếu giả thuyết trên đây là đúng thì dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ có công dụng lớn cho giới khoa trường.
Nhưng nó chỉ bao gồm hai trong 16 cách chơi lý thuyết của thi nhân đời Đường. Nên nó không có khả năng để đo lường sự sai Niêm, đúng Niêm của tất cả 16 cách.

Thi nhân tiền bối của chúng ta

Nên ngoài khoa trường, thi nhân tiền bối của chúng ta vẫn chơi theo cách phóng khoáng của thi nhân đời Đường, dĩ nhiên phần lớn thơ của họ vẫn theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7, nhưng họ cũng có làm những bài thơ thuộc loại nằm ngoài dải số như :

bài VỊNH DẾ DUỖI nêu trên của Tú Quỳ.
Trên 1-3 2-4 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng

HÀ TIỆN
Trên 1-4 2-3 luật Bằng + dưới 1-4 2-3 luật Trắc

Giàu thì ba bữa khó thì hai (Luật Bằng
Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy
Nón đổi lá ngoài quần đổi ống
Dép thay da mặt túi thay quai
Dặn vợ có cà đừng gắp mắm (Luật Trắc
Bảo con bớt gạo bỏ thêm khoai
Thế gian mặc kẻ cười hà tiện
Ta chẳng phiền ai chẳng lụy ai.
Nguyễn-Minh-Triết
(chắc là không phải ông Triết hiện nay)

DĨ HÒA VI QUÝ
trên 1-3 2-4 Trắc + dưới 1-4 2-3 Trắc

Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu (Niêm 1-3 2-4
Làm chi cho có sự đôi co
Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn
Ðấy rằng đấy phải đấy không thua
Duật nọ hãy còn đua đến bạng (Niêm 1-4 2-3
Lươn kia hầu dễ kém chi cò
Chữ rằng : Nhân dĩ hòa vi quý
Vô sự thì hơn khỏi phải lo.
Nguyễn-Bỉnh-Khiêm

ÐỘC TIỂU THANH KÝ
trên 1-4 2-3 Bằng + dưới 1-3 2-4 Bằng

Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư (Niêm 1-4 2-3
Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn (Niêm 1-3 2-4
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Nguyễn-Du

Thơ « phá cách » đúng nghĩa

Trong số Đường Thi có dịp đọc qua, tôi chỉ gặp duy nhất một bài thơ đáng gọi là thơ « phá cách » sau đây :

VÕNG XUYÊN BIỆT NGHIỆP
trên 1-4 2-3 Trắc + dưới 1-2 3-4 Trắc

Bất đáo Đông sơn hướng nhất niên (trên theo Niêm 1-4 2-3 của thơ tứ cú
Qui lai tài cập chủng xuân điền
Vũ trung thảo sắc lục kham nhiễm
Thủy thượng đào hoa hồng dục nhiên
Ưu lậu tỳ khưu kinh luận học (dưới Niêm theo 1-2 3-4 chưa hề thấy)
U lũ trượng nhân hương lý hiền
Phi y đảo tỷ thả tương kiến
Tương hoan ngữ tiếu hành môn tiền.
Vương Duy

BIỆT THỰ Ở VÕNG XUYÊN

Đông Sơn chẳng đến trọn năm nay
Về gặp mùa xuân kịp cấy cày
Cỏ dại trong mưa xanh biếc biếc
Hoa đào trên nước đỏ hây hây
Tỳ hưu học đạo bàn kinh kệ
Bô lão làm gương giữ tháng ngày
Khoát áo trở giày tìm gặp bạn
Nói cười trước cổng thật vui thay !
Đinh Vũ Ngọc

Bài Đằng Vương Các của Vương Bột

Bài Đằng Vương Các của Vương Bột cũng không phải là thơ thất Niêm hay thơ Cổ Phong. Bài ấy vẫn là một bài Đường Luật nằm trong cách chơi phóng khoáng của thi nhân đời Đường với sự khác Niêm giữa 4 câu trên và 4 câu dưới. Nhưng Vương Bột phóng khoáng thêm hơn chút nữa là :

Dùng 3 chữ vần cho mỗi bài tứ cú*
Tuy là cùng một vần, nhưng bài tứ cú trên với 3 chữ vần Trắc, và bài tứ cú dưới với 3 chữ vần Bằng.

* thông thường thì bài tứ cú dưới chỉ dùng 2 chữ vần, để dễ viết cho cặp 5-6 của bài bát cú được đối nhau.

ÐẰNG VƯƠNG CÁC
trên 1-4 2-3 luật Bằng, 3 vần « u » thanh Trắc
+ dưới 1-3 2-4 luật Bằng, 3 vần « u » thanh Bằng

Ðằng Vương cao các lâm giang chử
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa đống triêu phi Nam phố vân
Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di kỷ độ thu
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.
Vương Bột

ÐẰNG VƯƠNG CÁC

Bến sông cao ngất Ðằng Vương Các
Múa hát im rồi loan ngọc đâu
Nam Phố mây bay quanh cột vẽ
Tây Sơn mưa cuốn trước rèm châu
Mây trôi đầm ánh từ bao độ
Vật đổi sao dời đã mấy thu
Ðế tử không còn trơ gác vắng
Trường Giang muôn thuở chảy bên lầu.
Bùi Khánh Ðản

Kết luận :

Nay không còn là thời kỳ khoa cử.
Nhưng người làm thơ lắm khi thích tìm cái khó để trổ tài. Làm thơ theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 cũng là thêm một chút khó. Với cái khó đó mà cống hiến được cho làng thơ những bài thơ hay là điều đáng ca ngợi, chẳng ai mong muốn gì hơn.

Nhưng việc gọi những bài TNBC Đường Thi danh tiếng của Lý Bạch, Đỗ Phủ … Nguyễn Du là thơ phá cách, thơ thất Niêm hay thơ Cổ Phong, chỉ vì chúng nằm ngoài dải số, thì quả là không đúng.

Vì như trên đã trình bày, dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ tương ứng với 2 trong 16 cách Niêm-Luật mà thi nhân đời Đường áp dụng. Nên rất có thể nó chỉ là sản phẩm của giới khoa trường. Họ có lý do để chỉ dùng hai thể thơ thông dụng nhất và có nhiều tác phẩm nhất, tránh việc dùng tất cả 16 cách Niêm-Luật để tiện cho việc chấm thi.

Mặt khác, công dụng của Niêm và Luật là chỉ tắt cho ta thấy cách viết ra những câu thơ có âm điệu tốt, dễ nghe, hoặc tránh được sự khổ độc.
Những bài thơ bị dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 xếp vào loại Thất Niêm thực sự không phải là « thất Niêm » mà chỉ là « khác Niêm », nên đều có âm điệu hoàn hảo, chẳng ai nêu ra được là những bài thơ ấy bị kém đi phần âm vận ở chỗ nào ?
Và nếu lấy công tâm và sự thẩm âm riêng mà nhận xét thì có thể có người thấy ngược lại như sau :

Trong bài Hà Tiện : Câu « Dặn vợ có cà đừng gắp mắm » khiến cho nhạc điệu bốc lên rất mạnh, nhờ đổi Luật.

Trong bài Dĩ Hòa Vi Quý : câu « Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn » cũng có tác dụng tương tự, nhờ áp dụng phép Niêm 1-3 2-4.

- Nhắc lại : Nay không còn là thời kỳ khoa cử.
- Phần kỹ thuật của thi nhân đời Đường đã được mỗ xẻ phân tách đúc kết như trên, cho thấy cách chơi của họ rộng rãi phóng khoáng hơn cách chơi quy định bởi dải số dùng chấm thi của thời khoa cử.
- Mọi người chúng ta hoàn toàn tự do để chọn lựa cách chơi : theo thi nhân đời Đường hay theo dải số của giới khoa cử cũng đều tốt cả. Vì cách nào cũng cho được những bài thơ hay cho làng thưởng thức.
- Nhưng phải trả lại César những gì của César.
Những bài thơ bị gọi oan uổng là thất Niêm kia phải được thanh minh và được có mặt trong mọi trang Đường Thi, thay vì bị gạt ra ngoài như hiện tại.

Rất mong được nghe những lời cao luận.
Trân trọng kính chào quý vị.

Võ Nhựt Ngộ
 
tuannv

tuannv

Trung cấp
19/12/08
174
5
18
Hanoi
"Thơ là phải có tình, nếu không có tình thì chỉ là văn vần mà thôi" - Nhớ lời thầy giáo dạy văn ngày xưa bảo vậy.

Đôi khi đọc không thấy tình tứ gì hết, vẫn vui :)
Đôi khi đọc không thấy đúng bằng trắc gì đó vẫn hay, vẫn hiểu
Tớ là tớ chẳng hiểu luật, tớ tôn trọng luật, nhưng tớ thích tự do, tớ đang học làm thơ :)
 
H

HienMQ

Guest
11/5/06
19
1
3
Tp HCM
Tóm đi tóm lại được cái kết cục là: Chả biết như thế nào thì được gọi là thơ nữa?
 
TAT

TAT

Thành viên Tình Nguyện
6/8/05
1,014
12
0
46
Làng Cà
Tóm đi tóm lại được cái kết cục là: Chả biết như thế nào thì được gọi là thơ nữa?

À, dạo này bác Trung gặp nhiều thể loại thơ "TỰ PHONG" quá nên mới post cái này để các "Nhà Thơ" vào đọc ^^
 
payment

payment

Trung cấp
18/11/09
122
1
0
BĐ->Tp. Hồ Chí Minh
À, dạo này bác Trung gặp nhiều thể loại thơ "TỰ PHONG" quá nên mới post cái này để các "Nhà Thơ" vào đọc ^^

Làm thơ theo luật khó hơn mấy bài "tự phong" nên bà con post thơ hơi nhiều ở thể loại này:045:
 
Đ

Đoàn Minh Trung

Gió thổi dừa rơi
23/12/06
935
24
18
TX Bến Tre
Tóm đi tóm lại được cái kết cục là: Chả biết như thế nào thì được gọi là thơ nữa?

Tóm lại (Theo quan điểm cuả tôi):

Thơ Đường luật TNBC:
- Luật & vần : Tuân thủ luật (B-T)

Nếu mở đầu bài thơ bằng T B T (luật trắc) thì bài thơ sẽ theo luật như sau:

câu 1: x T x B x T b (vần)
câu 2: x B x T x B b (vần)
câu 3: x B x T x B t
câu 4: x T x B x T b (vần)
câu 5: x T x B x T t
câu 6: x B x T x B b (vần)
câu 7: x B x T x B t
câu 8: x T x B x T b (vần)

Nếu mở đầu bài thơ bằng B T B (luật bằng) thì bài thơ sẽ theo luật như sau:

câu 1: x B x T x B b (vần)
câu 2: x T x B x T b (vần)
câu 3: x T x B x T t
câu 4: x B x T x B b (vần)
câu 5: x B x T x B t
câu 6: x T x B x T b (vần)
câu 7: x T x B x T t
câu 8: x B x T x B b (vần)

- Niêm:
Như trên là niêm 1-8,2-3,4-5,6-7, tức là câu 1 cùng luật với câu 8, câu 2 đi với câu 3, 4-5, 6-7
Theo Đưòng luật trong khoa cử thì bài TNBC chỉ có 2 cách làm như trên mà thôi.

Nhưng theo quan điểm cuả một số học giả thì Niêm bài TNBC được sắp xếp là gồm 2 bài tứ tuyệt lại với nhau, tức là bài TNBC có tới 16 cách làm (Như nhận xét cuả bác Lá ở bài trên), bởi một bài tứ tuyệt thì có Niêm 1-4,2-3 hoặc 1-3,2-4

- Đối:
Câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6
Đối là ý đối ý, từ đối từ, thanh đối thanh, đối thanh (B-T) chỉ dùng cho các chữ thứ 2,4,6 trong câu (nhất, tam, ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục phân minh)
Nhưng ý đối ý thì ko được trùng ý:
VD:
Câu 3: Hoài mơ bóng
Câu 4: Mãi nhớ hình
Thì ko được vì 2 câu này có cùng một ý (trùng ý)

- Bố cục:
Một bài TNBC phải thể hiện được 4 phần:
Câu 1-2 là hai câu đề: Mở ra vấn đề về bài thơ
Câu 3-4 là hai câu thực: Giải thích về vẫn đề
Câu 5-6 là hai câu luận: Bàn luận về vấn đề
Câu 7-8 là hai câu kết: Kết luận lại vấn đề

- Như vậy Thơ Đường luật có thể gọi là khó (thơ bác học) nhưng khi làm quen rồi thì làm cho đúng cũng ko khó. Còn làm được thơ hay hay ko, lại là chuyện khác.

Nhưng khi đã làm được một bài TNBC nhưng ko đáp ứng được một trong những ĐK trên thì vẫn được coi là một bài thơ theo thể thơ mới (thơ 7 chữ). Do đó ai yêu thơ, có cảm hứng thì cứ mạnh dạn làm thơ miễn là trong một bài thơ chuyền tải được đầy đủ nội dung, có vần, êm tai, có hồn... là tốt rồi. Còn việc xếp nó vào loại thơ nào thì xét sau.
 
TAT

TAT

Thành viên Tình Nguyện
6/8/05
1,014
12
0
46
Làng Cà
Làm thơ theo luật khó hơn mấy bài "tự phong" nên bà con post thơ hơi nhiều ở thể loại này:045:

Thơ nói theo một khía cạnh nào đó thì nó thuộc thể loại "Văn Vần"

Thơ có nghiêm luật hay tự do cũng phải thỏa mãn ít nhất 1 tiêu chuẩn: Đó là phải vần và có nhịp điệu!

Các thể loại tự do không câu lệ từ ngữ thì mình không nói, nhưng làm thơ lục bát thì chắc chắn phải gieo vần đúng nơi đúng chỗ. Đọc nhiều bài "tự phong" lục bát mình chẳng thấy vần gieo chỗ nào.

"Chúng ta" chỉ làm thơ cho vui vì không phải là NHÀ THƠ ĐÚNG NGHĨA, mình là Mod đọc xong mấy bài không vần điệu, nghiêm luật đáng lý ra thì có thể xóa nhưng quả thật không thể xóa vì đó là "sản phẩm" của người khác - kể cả nó không hay.

Chỉ có điều mong muốn các bạn đọc thêm cái gì đó về thơ, để sản phẩm của mình không đui què mẻ sứt.
 

Xem nhiều