Tìm hiểu về Bệnh cúm

  • Thread starter dangphuonglam79
  • Ngày gửi
D

dangphuonglam79

Sơ cấp
29/10/10
17
0
0
long an
Ăn gì để phòng chống cảm cúm?

Biện pháp phòng chống cảm cúm dễ dàng mà lại cho hiệu quả cao chính là đi qua chiếc dạ dày…

an-gi-de-phong-chong-cam-cum-1.jpg

1. Rau xanh và trái cây mỗi bữa ăn

Các chất chống ôxy hoá có nhiều trong rau xanh và hoa quả giúp cơ thể loại bỏ các gốc tự do và tăng sức đề kháng trước sự tấn công của virus.

Vì thế, hãy đảm bảo ít nhất 5 loại rau xanh và trái cây với các màu sắc đa dạng trong thực đơn mỗi ngày để ngăn chặn sự “hỏi thăm” của các bệnh đường hô hấp.

Ảnh minh họa.
2. Nêm thêm tỏi, hành

Thêm nhiều hành và tỏi trong các món ăn vào mùa đông có tác dụng tăng sức đề kháng cho cơ thể trước các triệu chứng hắt hơi, sổ mũi. Hơn thế, hành và tỏi còn ngăn ngừa ung thư hiệu quả.

cảm lạnh, phòng bệnh, cảm cúm, cảm, sốt, đau đầu, sổ mũi

Ảnh minh họa.
3. Thân thiện với hải sản

Với nguồn Omega-3 dồi dào, hải sản mang đến cho cơ thể rất nhiều kẽm - một chất chống ôxy hoá kích thích hoạt động của hệ miễn dịch.

Những nguồn kẽm khác có thể tìm thấy trong thịt gà, mầm lúa mì, các cây họ đậu…

an-gi-de-phong-chong-cam-cum-2.jpg

4. Tận hưởng cá và các nguồn Omega-3

Chất béo bão hoà, nhất là Omega-3 rất cần thiết cho cơ thể nhờ khả năng cải thiện hệ miễn dịch.

Các chuyên gia dinh dưỡng khuyên bạn nên ăn cá (hoặc hải sản) 3 lần mỗi tuần, nên sử dụng dầu thực vật (dầu ôliu, dầu hạt cải, dầu hạt lanh…) với liều lượng hợp lý trong bữa cơm gia đình. Bên cạnh đó, có thể nhâm nhi thêm các loại hạt như hạt hướng dương, hạt vừng, hạt điều và hạt lanh.


5. Cung cấp đủ protein

Nếu thiếu hụt protein, hệ miễn dịch sẽ hoạt động kém hiệu quả do các tế bào (nhất là tế bào máu trắng giúp cải thiện hệ miễn dịch) không được nuôi dưỡng tốt.





Trứng, cá và thịt là những nguồn cung cấp protein chính cho cơ thể của chúng ta. Tuy nhiên, ta không ăn vô độ những thực phẩm này. Tốt hết hãy lựa chọn thịt gia cầm thay cho thịt đỏ. Và đừng quên rằng quá nhiều đạm và chất béo sẽ gây tác dụng ngược, làm cơ thể mệt mỏi và giảm khả năng kháng cự trước các bệnh đường hô hấp.
6. Vận động cơ thể bắt buộc

an-gi-de-phong-chong-cam-cum-6.jpg


Ngoài chế độ ăn hợp lý giúp phòng ngừa cảm cúm trong mùa đông, ta cũng cần duy trì đều đặn một hình thức luyện tập nhất định để cơ thể luôn khoẻ mạnh, có sức chống chọi cao trước sự tấn công của virus cúm.
Thêm vào đó, vệ sinh tay thường xuyên cũng là giải pháp hiệu quả trong việc phòng chống các bệnh cảm cúm.
trích từ khoemoingay.vn
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
D

dangphuonglam79

Sơ cấp
29/10/10
17
0
0
long an
Nhiễm Mycoplasma - Bệnh dễ nhầm với cúm

Ở người có 16 loài Mycoplasma sống cộng sinh và gây nhiễm khuẩn đường hô hấp, viêm niệu đạo, âm đạo...
cum-1.jpg

Đặc điểm của vi khuẩn

Mycoplasma là sinh vật sống nhỏ bé nhất, có duy nhất một màng bào tương bao quanh. Do thiếu vách tế bào nên vi khuẩn có tính đa dạng tế bào và tính đề kháng đối với những thuốc kháng sinh tác động lên vách tế bào như penicillin và cephalosporin; việc nuôi cấy trong ống nghiệm cũng rất khó khăn. Vi khuẩn cư trú tại niêm mạc đường hô hấp và đường niệu, sinh dục của nhiều loài động vật. Ở người có 16 loài Mycoplasma sống cộng sinh và gây nhiễm khuẩn đường hô hấp, viêm niệu đạo, âm đạo...

Mycoplasma pneumoniae (MP) bám dính lên tế bào, đồng thời sản xuất được hydro peroxid và nhiều chất ammonia gây tổn thương tế bào vật chủ; kích hoạt những tự kháng thể IgM làm ngưng kết hồng cầu ở 4oC, gây thiếu máu và một số biến chứng khác. MP gây bệnh ở đường hô hấp đối với mọi lứa tuổi, đặc biệt từ 5 - 20 tuổi. Thời gian ủ bệnh từ 2 - 3 tuần, lâu hơn so với đa số các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp khác. Bệnh lây lan do tiếp xúc, không những phát thành dịch ở trường học và các tập thể đông người mà còn xuất hiện rải rác ở các gia đình. Tuy viêm phổi là biểu hiện đặc trưng, nhưng nhiễm MP ngoài phổi lại phổ biến hơn. Ở trẻ rất nhỏ, đa số chỉ có triệu chứng hô hấp trên, trong khi ở trẻ trên 5 tuổi và người lớn hay gặp viêm phế quản và viêm phổi.
Biểu hiện lâm sàng

cum.jpg


Sau thời gian ủ bệnh kéo dài, bệnh khởi phát với các triệu chứng: sốt trên 39oC, có lạnh run, đau đầu, đau cơ ngực do ho nhiều và kéo dài, ho nặng; nhưng ít gặp đau ngực kiểu màng phổi. Số ít bệnh nhân bị viêm phế quản, khí quản hay viêm phổi có triệu chứng ho nổi bật. Ho có đờm màu trắng thường lẫn một ít máu. Nghe phổi có thể bình thường nên khó phát hiện được bệnh. Chụp Xquang cho thấy những hình ảnh tổn thương. Dưới 20% bệnh nhân bị tràn dịch màng phổi.

Nhiều triệu chứng ngoài phổi do MP gây ra gồm: ban đỏ đa dạng hay hội chứng Stevens-Johnson xảy ra đặc trưng ở bệnh nhân nam trẻ tuổi; dát sẩn và ban ngoài da dạng mụn nước, hồng ban nút và mày đay; viêm cơ tim và viêm màng ngoài tim; viêm não, rối loạn điều hòa do tiểu não, hội chứng Guillain-Barré, viêm tủy cắt ngang và bệnh thần kinh ngoại biên; thiếu máu tán huyết và các bệnh lý đông máu.

Hầu hết, bệnh do nhiễm MP không được chẩn đoán vì không thể phân biệt được với bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp do vô số tác nhân vi khuẩn và virut khác gây ra. Người ta chỉ nghi ngờ khi bệnh kéo dài hay có những dấu hiệu ngoài phổi. Đây là đặc điểm phân biệt với bệnh cúm nói chung và cúm A (H1N1) nói riêng không có biến chứng (thường giảm sau 2- 5 ngày và đa số bệnh nhân hồi phục phần lớn sau 1 tuần). Tuy nhiên ở người cao tuổi, triệu chứng của bệnh cúm có thể kéo dài vài tuần do suy nhược cơ năng sau cúm. Số lượng bạch cầu thường tăng, nhuộm gram đờm chỉ thấy bạch cầu chứ không có bất kỳ loại hình thái vi khuẩn nào do vi khuẩn không có vách tế bào, nên không thể phát hiện chúng bằng nhuộm gram. Chụp Xquang ở bệnh nhân viêm phổi, có thể thấy thâm nhiễm mô kẽ hoặc thâm nhiễm dạng nốt chủ yếu ở những thùy dưới. Nuôi cấy không mang lại kết quả giúp ích cho chẩn đoán. Những phương pháp như miễn dịch gắn men, miễn dịch huỳnh quang gián tiếp và cố định bổ thể có thể phát hiện các kháng thể đặc hiệu. Agglutinnin lạnh tuy không đặc hiệu nhưng xuất hiện vào ngày thứ 7 đến ngày thứ 10 trong hơn 50% số bệnh nhân viêm phổi và có thể phát hiện được bệnh. Xét nghiệm đa kháng nguyên cũng thích hợp để chẩn đoán bệnh.
Điều trị đặc hiệu

cum-2.jpg


Vì hầu hết bệnh nhiễm MP không được chẩn đoán, nên việc điều trị phải hướng đến một trong hai hội chứng: nhiễm khuẩn hô hấp trên và viêm phổi có tính chất dịch ở những tập thể. Nhiễm khuẩn hô hấp do virut lẫn do MP đều không cần điều trị bằng kháng sinh. Tuy nhiên, viêm phổi mắc phải ở các tập thể, cộng đồng có thể do các vi khuẩn Streptococcus pneumoniae và Haemophilus influenzae gây ra hoặc do những tác nhân “không điển hình” như Chlamydia pneumoniae, Legionella pneumophila và MP. Do đó phác đồ điều trị phù hợp phải dùng những kháng sinh có hoạt phổ rộng hoặc phối hợp đồng thời nhiều loại thuốc: cephalosporin thế hệ 3 như ceftriaxon; ceftotaxim phối hợp với erythromycin có tác dụng diệt các loại vi khuẩn không điển hình. Nếu có điều kiện sử dụng các thuốc mới như: clarithromycin; azithromycin; levothyroxin có tác dụng tiêu diệt những vi khuẩn gây viêm phổi cộng đồng. Cần chú ý rằng điều trị viêm phổi do MP thường kéo dài từ 14 - 21 ngày. Viêm phổi do MP thường tự giới hạn và hiếm khi gây đe dọa tính mạng. Thuốc kháng sinh có hiệu quả sẽ làm ngắn thời gian bị bệnh, giảm ho và làm giảm mức độ lây nhiễm ở bệnh nhân. Mặc dù triệu chứng sẽ cải thiện khi điều trị kháng sinh, nhưng vi khuẩn thường không bị tiêu diệt tận gốc. Kết quả nuôi cấy vi khuẩn vẫn dương tính sau nhiều tháng dù đã điều trị kháng sinh có hiệu quả.

Nếu chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng, một người bị cúm rất khó chẩn đoán phân biệt với bệnh hô hấp cấp tính do các virut gây bệnh khác hay do MP gây ra. Để phân biệt người ta phải dựa vào tính chất gây dịch của cúm và xét nghiệm phát hiện virut gây bệnh. Triệu chứng và điều trị bệnh cúm A (H1N1) chúng tôi đã giới thiệu trên SK&ĐS trong các số báo trước, độc giả có thể so sánh để phân biệt với bệnh do Mycoplasma trình bày trên đây.
trích từ khoemoingay.vn
 
D

dangphuonglam79

Sơ cấp
29/10/10
17
0
0
long an
Phòng bệnh cúm và viêm phổi do phế cầu

Hai bệnh hô hấp thường gặp trong mùa lạnh là bệnh cúm và nhiễm khuẩn đường hô hấp do phế cầu khuẩn. Căn nguyên gây ra các bệnh lý này có thể là do virut hoặc vi khuẩn...
flu_shot_symptoms1.jpg

Tác hại của nhiễm khuẩn đường hô hấp do phế cầu khuẩn

Đây là tình trạng nhiễm khuẩn đường hô hấp gây ra bởi một loại vi khuẩn có tên là streptococcus pneumoniae. Phế cầu này là một loại vi khuẩn gây bệnh thường lưu trú tại vùng mũi họng không chỉ ở người bệnh mà ngay cả ở một số người khỏe mạnh. Người ta nhận thấy rằng có khoảng 60% trẻ em và 30% người lớn khỏe mạnh có mang vi khuẩn này trong vùng mũi họng. Khi sức đề kháng của cơ thể giảm, hoặc do viêm nhiễm bội phát, do bị cảm lạnh thì những vi khuẩn này sẽ bùng lên và gây bệnh ở họng rồi lan xuống phổi. Vi khuẩn có thể lây truyền từ người này sang người khác qua không khí khi hắt hơi, ho, đặc biệt khi có những môi trường thuận lợi như ở nơi đông đúc, chật chội.
Viêm phổi do phế cầu biểu hiện như thế nào?

cum1.jpg


Sau khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp, phế cầu có thể gây ra viêm phổi, đây là căn nguyên gây ra viêm phổi cao nhất hiện nay, chiếm 30 - 50% các trường hợp viêm phổi. Bệnh nhân thường có những biểu hiện cấp tính như sốt cao, đau ngực, ho nhiều... có thể dẫn đến tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Đối với những người có sẵn các bệnh mạn tính, viêm phổi do phế cầu sẽ làm nặng thêm bệnh lý mạn tính hiện có và tỷ lệ tử vong ở những trường hợp này cũng tăng lên. Không chỉ gây viêm phổi mà phế cầu còn có thể xâm nhập sâu hơn vào cơ thể gây ra nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não... Mọi người đều có thể bị nhiễm phế cầu khuẩn, tuy nhiên một số người có nguy cơ mắc bệnh cao hơn, đó là những người cao tuổi, trẻ nhỏ, bệnh tim, phổi hoặc gan, thận, nghiện rượu hoặc ung thư...
Ai dễ mắc cúm?

Bệnh cúm là bệnh gây ra do virut cúm tấn công vào đường hô hấp trên. Có 3 phân nhóm virut cúm đó là A, B và C. Virut cúm nhóm A và B là những nhóm được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất vì nó là căn nguyên chính gây tử vong và tổn hại cho con người. Triệu chứng của bệnh cúm thường là ho, sốt, sổ mũi, đau họng, nhức đầu, mệt mỏi. Người lớn thường hồi phục sau 1 đến 2 tuần. Bệnh nhân cúm hồi phục nhanh, những người bị các bệnh mạn tính, sức đề kháng yếu có thể có những biến chứng nặng.
Viêm phổi cấp tính do virut là một biến chứng nặng của cúm, đó là những đại dịch như H5N1 gây ra. Triệu chứng khởi đầu giống như cúm điển hình nhưng tiến triển nhanh, trong vòng 3 ngày bệnh nhân sẽ bị sốt cao, ho, khó thở, tím tái. Phù phổi do suy tim và các biểu hiện thần kinh và thận khác. Tỷ lệ tử vong cao và diễn tiến nhanh. Kháng sinh không có hiệu quả chống lại virut. Bệnh cúm có thể lây nhiễm cho mọi người trên toàn thế giới, bất kể tuổi tác, chủng tộc. Các trận dịch cúm có thể lây truyền từ nơi khởi phát sang các khu vực khác chỉ trong vòng vài tháng. Khí hậu ẩm lạnh, phương tiện di chuyển công cộng đông đúc là những điều kiện tốt khởi phát các trận dịch cúm. Trong mùa dịch cúm hằng năm, có khoảng 10% dân số thế giới nhiễm cúm, có nghĩa tất cả mọi người đều có thể mắc cúm.

flu-symptoms-fever.jpg

Phòng ngừa nhiễm phế cầu khuẩn và virut cúm như thế nào

Viêm phổi do phế cầu khuẩn có thể dẫn đến tử vong, do vậy bệnh nhân cần được nhập viện để điều trị. Tuy bệnh có thể được điều trị khỏi bằng kháng sinh sau 7 – 10 ngày nhưng việc điều trị đang gặp nhiều khó khăn do tình trạng vi khuẩn kháng thuốc ngày càng cao. Đối với bệnh cúm thì hiện vẫn chưa có thuốc điều trị.

Hằng năm, các nhà y học dự phòng và truyền nhiễm trên thế giới có những tổng kết quan trọng để đánh giá xem virut cúm nào là chủ yếu trong mùa bệnh sắp tới, qua đó các nhà sản xuất vaccin sẽ đưa ra những loại vaccin cúm phù hợp. Việc phòng bệnh cúm và viêm phổi do phế cầu bằng vaccin thật sự là một kết quả mong đợi đối với nhiều người, nhất là phụ nữ chuẩn bị mang thai, người già, người mắc bệnh mạn tính và trẻ em. Ngoài việc phòng bệnh bằng vaccin, mọi người cần chủ động bảo vệ sức khỏe trong mùa lạnh như luôn mặc ấm, ngủ đủ giấc, ăn đủ chất dinh dưỡng và hạn chế tiếp xúc với nguồn bệnh.
trích từ khoemoingay.vn
 
D

dangphuonglam79

Sơ cấp
29/10/10
17
0
0
long an
Bệnh cúm ảnh hưởng thế nào đến thai nhi?

Nghiên cứu phát hiện đa số bệnh đều có thể thâm nhập vào thai nhi qua nhau thai, khiến thai nhi bị dị hình hoặc chết lưu và bệnh cúm cũng không phải là một ngoại lệ.
dung-thuoc-khi-mang-thai-khong-nen-qua-lo-lang-1.jpg

Cảm cúm thông thường hay dịch cúm đều do sự truyền nhiễm qua đường hô hấp mà nên. Các biểu hiện của cảm cúm thông thường như nhức đầu, sổ mũi, ngạt mũi, đau họng, ho và đau người v.v... có thể xảy ra ở rất nhiều người. Những triệu chứng này ảnh hưởng không lớn đến thai nhi. Nhưng nếu nhiệt độ cơ thể cứ kéo dài ở 39 độ C thì phải thận trọng vì có thể nó sẽ gây dị hình ở thai nhi.

Dịch cảm cúm là do các vi rút gây bệnh từ nước bọt, mũi và đờm của người bệnh thông qua không khí truyền sang người bình thường, tính lan truyền của nó rất mạnh gây nên bệnh dịch.

Người mắc vi rút truyền nhiễm thường có các biểu hiện như: lúc nóng, lúc lạnh, sốt tương đối cao, đau đầu, toàn thân nhức mỏi, thường thì sau khi hạ sốt sẽ có các triệu chứng như là ngạt mũi, chảy nước mũi, đau họng v.v... khiến cho thể lực của người bệnh tiêu hao lớn và hồi phục chậm.

1293007775-bau-tap-2_1.jpg

Vi rút của dịch cúm không chỉ khiến thai nhi bị dị hình, mà khi sốt cao cộng với độc tính của vi rút cũng có thể kích thích co bóp tử cung gây nên hiện tượng sảy thai hoặc sinh sớm.

Qua điều tra trên 56 thai nhi bị dị hình thì có tới 10 thai nhi là do sản phụ đã từng mắc dịch cúm, thai nhi được khoảng 50 ngày tuổi. Do tính chất của dịch cúm là rất mạnh thông thường phải dùng các biện pháp hạ sốt, tiêm, dùng kháng sinh v.v... nên khi sử dụng bắt buộc phải tiến hành theo chỉ thị từ bác sỹ.

Các bà bầu bí cần chú ý đề phòng vi rút truyền nhiễm, nhất là vấn đề dinh dưỡng để tăng cường thể lực, tránh tiếp xúc với những người bệnh, khi có bệnh dịch thì không nên đến những nơi công cộng.

Khi mắc cúm rồi thì cần kịp thời có biện pháp khống chế bệnh dịch lây lan, loại trừ mầm bệnh đồng thời áp dụng các biện pháp hạ sốt thích hợp cho mình như: uống nhiều nước ấm, chú ý nghỉ ngơi, giữ ấm cho cơ thể, v.v...

Các biện pháp hạ sốt thông thường là dùng khăn lạnh hay chườm đá lên vùng trán v.v... không nên dùng thuốc uống hạ sốt để tránh ảnh hưởng đến sản phụ và thai nhi.

Một số trường hợp có thể căn cứ theo chỉ định của bác sỹ để dùng thuốc bắc điều trị. Thuốc bắc rất có hiệu quả trong việc điều trị cảm cúm mà độc tính lại thấp cho nên các lương y cho rằng việc sử dụng thuốc bắc để điều trị bệnh cảm cúm cho phụ nữ mang thai là biện pháp có thể áp dụng được.


trích từ khoemoingay.vn
 
D

dangphuonglam79

Sơ cấp
29/10/10
17
0
0
long an
Cúm là bệnh do virus xảy ra ở đường hô hấp, gồm mũi, họng, phế quản và phổi. Bệnh có thể xảy ra ở bất kỳ ai, nhưng trẻ nhỏ, người già, người bị bệnh mạn tính và suy giảm miễn dịch đặc biệt dễ mắc.
cum_0.jpg

Nguyên nhân

Có 3 chủng virus gây bệnh cúm là cúm A, B, và C. Virus cúm lây lan qua những giọt dịch tiết bắn vào trong không khí khi người bệnh ho và hắt hơi. Cúm týp A là nguyên nhân gây nên nhiều đại dịch nguy hiểm xảy ra 10 đến 40 năm một lần. Cúm týp B gây ra những ổ dịch nhỏ khu trú hơn. Cả hai týp A và B đều gây bệnh cúm theo mùa lưu hành hằng năm. Cúm týp C chưa bao giờ gây ra đại dịch lớn.
Triệu chứng


cum-1_0.jpg

Bệnh cúm thường có khởi đầu giống như cảm lạnh với các triệu chứng chảy nước mũi, thờ khò khè và đau họng, song thường có khởi phát đột ngột và nặng lên nhanh chóng. Các dấu hiệu và triệu chứng thường gặp khác gồm:

Sốt, rét run và toát mồ hôi

Đau đầu

Ho khan

Đau nhức cơ, nhất là vùng lưng, cánh tay và chân

Mệt mỏi nhiều

Ngạt mũi

Chán ăn

Tiêu chảy hoặc nôn ở trẻ em
Điều trị

Thông thường bệnh nhân chỉ cần nghỉ ngơi tại giường và uống nhiều nước. Nhưng trong một số trường hợp bác sĩ có thể kê đơn những thuốc chống virus như oseltamivir (Tamiflu) hay zanamivir (Relenza).

Những thuốc này điều trị cả cúm týp A và B, có tác dụng bất hoạt một enzym cần thiết để virus phát triển và lây lan. Nếu được dùng sớm thuốc có thể rút ngắn thời gian có triệu chứng. Cả hai thuốc đều có thể gây những tác dụng phụ như kém minh mẫn, buồn nôn, nôn, chán ăn hoặc khó thở, và có thể dẫn đến sự hình thành virus kháng thuốc..
Phòng bệnh


cum-3_0.jpg


Tiêm vaccin phòng cúm hằng năm. Tốt nhất nên tiêm vào tháng 10 hoặc tháng 11 để cơ thể tạo được kháng thể trước khi mùa cúm bắt đầu. Vaccin không có tác dụng bảo vệ hoàn toàn nhưng có thể làm giảm được nguy cơ và mức độ nặng của bệnh.

Rửa tay sạch. Đây là cách tốt nhất để phòng ngừa nhiều bệnh nhiễm trùng. Kì cọ kỹ bàn tay trong ít nhất 15 giây, tráng kỹ và dùng khăn giấy để tắt vòi nước. Hoặc dùng gel rửa tay chứa ít nhất 60% cồn.

Ăn đúng, ngủ đủ. Ăn ngủ kém sẽ làm giảm miễn dịch và khiến cơ thể dễ bị bệnh. Chế độ ăn cần cân đối, chú trọng rau quả, ngũ cốc và thịt nạc với lượng vừa phải. Người lớn cần ngủ 7 – 8 tiếng ban đêm. Trẻ lớn và trẻ vị thành niên cần ngủ nhiều hơn, chừng 9 – 10 tiếng.

Tập luyện thường xuyên có tác dụng tăng cường miễn dịch, nhờ đó khi bị bệnh triệu chứng sẽ nhẹ hơn và mau khỏi hơn.

Tránh nơi đông người khi đang có dịch cúm. Bệnh cúm lây lan dễ dàng ở những nơi tập trung đông người như nhà trẻ, trường học, công sở, nàh hát, rạp chiếu phim v.v… Tránh những nơi đông người khi đang có dịch cúm sẽ làm giảm nguy cơ lây bệnh.
trích tử khoemoingay.vn
 

Xem nhiều