Đọc bài các bạn viết cũng khó hình dung một cách hệ thống. Mình tóm tắt như thế này:
Về thuế TNCN từ tiền lương, tiền công có 2 trường hợp:
1. Có hợp đồng từ 3 tháng trở lên: thuế TNCN đóng theo thuế suất luỹ tiến, và mặc nhiên người lao động có mức thu nhập dưới 48tr/ năm sẽ không nộp thuế. Tuy nhiên có thể tháng nào có thu nhập nhiều hơn 4tr thì vẫn bị khấu trừ thuế theo biểu thuế luý tiến. Trong trường hợp này NLĐ chỉ có thể lấy lại tiền nộp thừa bằng cách quyết toán thuế năm.
Để quyết toán năm, có 2 trường hợp:
+ Nếu bạn chỉ có 1 nguồn thu nhập duy nhất, và cả năm chỉ ở nơi làm việc cuối cùng thì có thể uỷ quyền cho cơ quan chi trả họ quyết toán thay và nhận lại tiền hoàn thuế thông qua công ty.
+ Nếu bạn ở trong trường hợp có thể uỷ quyền cho cơ quan chi trả quyết toán thay, nhưng bạn không muốn hoặc cơ quan chi trả không muốn thì bạn có thế tự làm quyết toán với cơ quan thuế và nhận tiền hoàn thuế từ kho bạc nhà nước. Trường hợp tự quyết toán là áp dụng cho người có người có 2 nguồn thu nhập từ 2 nơi trong năm.
Điều kiện để được quyết toán thuế TNCN là người đó phải có MST. Nếu năm 2011 bạn chưa có MST nên không quyết toán thuế được thì sang 2012 khi bạn có MST thì bạn có thể làm quyết toán thuế năm 2011
2. Có hợp đồng dưới 3 tháng: thuế TNCN đóng theo thuế suất cố định 10% cho người có MST và 20% cho người không có MST, đối với cá nhân cư trú. Còn đối với cá nhân không cư trú thì thuế suất 20%.
Trong trường hợp này, nếu NLĐ không muốn bị khấu trừ thuế thì chỉ áp dụng được khi họ có cam kết thu nhập cả năm dưới mức chịu thuế. Và việc làm cam kết này đơn vị chị trả không chịu trách nhiệm về việc đúng hay sai của người cam kết, mà tự người làm cam kết chịu trách nhiệm.
Điều kiện để làm cam kết 23 ngoài việc thu nhập năm dưới mức chịu thuế thì còn yêu cầu NLĐ có MST.
Nguyến tắc là như vậy, cty các bạn tự vận dụng cho đúng để khỏi bị truy thu