Rủi ro gian lận

  • Thread starter act
  • Ngày gửi
A

act

Guest
29/11/05
85
1
0
TP Hồ Chí Minh
Em tham khảo một số tài liệu tiếng Anh về gian lận (fraud), có một số thuật ngữ không hiểu mong các anh chị giải thích giúp em:
- Nhân tố ảnh hưởng rủi ro gian lận : attitudes/rationalizations

- Expertise Forensic Accounting Consultants

Em cảm ơn trước.
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
A

act

Guest
29/11/05
85
1
0
TP Hồ Chí Minh
Hic không ai trả lời hết, chắc mùa kiểm toán các bác nhà mình bận rộn lắm đây, nhưng rất mong các bác giúp act với. Thuật ngữ trên act đã tìm được câu trả lời rùi, post lên cho mọi người góp ý kiến, đây là những nhân tố rủi ro gian lân trong SAS 99 :
Cách 1
• Sự khuyến khích và áp lực (incencitives/pressure): Sức ép hay động cơ
VD: Cần tiền chơi chứng khoán (incencitives) hay trả lãi vay (pressure)
• Cơ hội (oppurtunities)
VD: Vợ không khoá tủ sắt (hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém)
• Thái độ và sự hợp lý hoá (attitudes/rationalizations)
VD: Lấy tiền vợ (attitude) và tự bào chữa là chứng khoán lên giá sẽ bán và trả lại (rationalization)
Rationalization là việc cố gắng giải thích một cách hợp lý cho hành vi đã thực hiện.
Trong sách giáo khoa của Mỹ, họ dùng từ dễ hiểu hơn : Khả năng phát sinh gian lận xuất phát từ 3 yếu tố là:
- Motive (Động cơ)
- Opportunity (Cơ hội)
- Lack of Integrity (Thiếu liêm khiết) - Nếu muốn chơi chứng khoán, khi thấy két sắt mở mà mình liêm khiết thì cũng không gian lận.
Cách 2
Sự khuyến khích (bằng lợi ích) - Incencitives: Khi các công ty áp dụng những hình thức khuyến khích, chủ yếu là lợi ích vật chất, cho các kết quả ngắn hạn, sẽ dễ thúc đẩy người nhân viên đến hành vi gian lận. Thí dụ, các hình thức trả lương, thưởng theo lợi nhuận.
Sức ép - Pressure: Các áp lực từ cạnh tranh, từ khó khăn về tài chính… là một trong những nhân tố thúc đẩy sự gian lận để che giấu tình hình thực nhằm duy trì được vị trí công việc, các khoản vay hoặc các khoản đầu tư, hy vọng vượt qua những khó khăn tạm thời…
Cơ hội (để gian lận) - Oppurtunities: Một cá nhân muốn gian lận nhưng chỉ thực hiện được khi có cơ hội, thí dụ kiểm soát nội bộ yếu kém, thiếu công khai minh bạch…
Quan niệm (mang tính đạo đức) - Attitude: Những người có nhận thức/quan niệm không đúng dễ chấp nhận các hành vi không trung thực.
Sự ngụy biện - Rationalization: Khi gian lận, người ta thường tìm những lý do để biện minh cho hành vi không trung thực của mình.
Tóm lại, gian lận có thể xảy ra khi con người có những quan niệm không đúng hoặc do sức ép, đồng thời phải trong một môi trường kiểm soát kém.
Cách 3
• Những ưu đãi và sức ép (incencitives/pressure): Ưu đãi ở đây được hiểu là chúng sẽ thúc đẩy người ta thực hiện gian lận để được hưởng ưu đãi đó. Ví dụ công ty quy định nếu năm nay lợi nhuận đạt 50 tỷ thì giám đốc được thửơng 1% trong số đó. Điều này sẽ khuyến khích hay thúc đẩy giám đốc chạy theo thành tích cố gắng đạt 50 tỷ lợi nhuận để được thưởng, do vậy ngoài những nỗ lực tốt thì có thể giám đốc sẽ thực hiện hành vi gian lận để đạt được chỉ tiêu 50 tỷ lợi nhuận.
Sức ép cũng thúc đẩy người ta thực hiện hành vi gian lận nhằm tránh đi sức ép đó lên mình. Ví dụ, cấp trên quy định nếu năm nay Phòng Kinh doanh không đạt chỉ tiêu 600 triệu đồng doanh thu thì Trưởng phòng Kinh doanh sẽ bị cho nghỉ việc hoặc chuyển công tác khác. Sức ép này sẽ thúc đẩy Trưởng phòng Kinh doanh nỗ lực hay sẽ thực hiện hành vi gian lận để đạt 600 triệu doanh thu để không bị cho nghỉ việc hoặc chuyển công tác khác. Bệnh thành tích trong giáo dục cũng có nguyên nhân từ sức ép này.
• Cơ hội (oppurtunities) : nếu hệ thống KSNB yếu kém, tạo ra nhiều kẽ hở (cơ hội) thì người ta sẽ lợi dụng, ví dụ mỡ treo miệng mèo.
• Thái độ và tính tư lợi (attitudes/rationalizations) : con người luôn quan sát xung quanh mình xem mọi người ứng xử như thế nào và họ có xu hướng hành động theo đám đông. Ví dụ, một cá nhân ban đầu không có ‎ý định gian lận hoặc thậm chí ghét gian lận nhưng khi sống trong môi trường mà gian lận là chuyện phổ biến, hành vi gian lận không bị lên án, phê phán thì dần dà anh ta sẽ thay đổi thái độ của mình đối với gian lận. Dần dần, anh ta sẽ coi gian lận là chuyện có thể chấp nhận được, rồi đến một lúc nào đó, chính anh ta lại gian lận mà không hề cảm thấy áy náy nữa.
Con người luôn mang tính tư lợi (rationalizations), đó là do trước tiên họ thường nghĩ về mình, và thường làm sao để có lợi nhất cho mình. Do đó, khi họ thấy khi thực hiện một hành vi gian lận, nếu bị phát hiện và trừng phạt nhưng cái giá phải trả đó là không đáng kể so với lợi ích có được, lúc này họ sẵn sàng thực hiện hành vi gian lận. Nói cách khác, khi so sánh giữa lợi ích và chi phí, nếu thấy chi phí (giá phải trả) rất nhỏ trong khi đạt được lợi ích lớn hơn nhiều thì người ta sẽ làm, kể cả hành động đó là gian lận đi chăng nữa. Tuy nhiên tính tư lợi không phải bao giờ cũng đem lại thành công hay lợi ích, bởi lẽ khi tính toán hay hành động sai lầm có thể sẽ dẫn đến tình trạng gậy ông đập lưng ông, hay tính già hóa non.

Theo act thì cách 1 là cách giải thích mang tính tổng quát, hai cách còn lại sẽ giúp các bạn hiểu hơn về bản chất vấn đề.

Sẵn đây act mong các bác nhà mình giúp act giải đáp thắc mắc này với :

- Thứ nhất , khi nghiên cứu so sánh SAS 82 và SAS 99, act nghĩ rằng SAS 99 chỉ cụ thể hơn về phương pháp đánh giá rủi ro cũng như lập kế hoạch để phát hiện gian lận trên BCTC chứ trách nhiệm của KTV về vấn đề này của SAS 99 vẫn không thay đổi so với SAS 82 đúng hay không ? Nếu đúng thì phải chăng SAS 99 thực tế mà nói là một liệu pháp tinh thần mà ASB ban hành để tìm lại niềm tin của công chúng và nhà đầu tư vào thị trường vốn của Mỹ khi mà những vụ bê bối tài chính xảy ra hàng loạt trong thời gian đó? Đây chỉ là nhận xét phiến diện của act, rất mong các bác góp ý kiến thêm.

- Thứ hai, IAS 240 (2004) được ban hành một phần dựa trên SAS 99, tại sao tên của IAS 240 khác so với SAS 99, như vậy nếu so sánh về mặt thực tiễn đối với kiểm toán viên trong việc phát hiện gian lận trong BCTC thì chuẩn mực nào được xem là phù hợp hơn ?

- Thứ ba, theo act thấy hằng năm trên thế giới và tại một số nước như Mỹ, Anh, Úc đề có những báo cáo hay những thông kê về các vụ gian lận kinh tế nói chung và gian lận trên BCTC nói riêng. Vậy Việt Nam mình có hay chưa những báo cáo đó, và Ủy ban CK nhà nước của VN có trách nhiệm gì trong việc này hay không? Và nếu có thì act có thể mượn hoặc tìm để tham khảo như thế nào?

Rất mong các bác nhà mình dành chút ít thời gian giúp act với :wall: :wall:

Chân thành cảm ơn trước.
 
Sửa lần cuối:
A

act

Guest
29/11/05
85
1
0
TP Hồ Chí Minh
Thêm một thắc mắc nữa là bác nào có thể giải thích giúp act về thuật ngữ "Public sector environment" và "private sector financial statement auditor". Hic đọc ISA 240 mà thấy chóng cả mặt, hic mong các bác chỉ bảo giúp.
 
T

thu6tudo

I have changed
24/6/06
345
3
0
Đồng Nai
Theo thu6 hiểu thế này nè (có gì act chỉ thêm nha,hihi).
IAS thì thuật ngữ chuyên tu hơn (có nghĩa là, trong một số tài liệu training của BIG4, cái này thu6 biết được do mấy người bạn kiu dịch dùm, hic hic) ví dụ như: tài liệu phổ thông thì là audit team, nhưng trong đấy lại là engagement team, nhưng nói chung thì giải thích thì mình hiểu, nhưng dịch sang tiếng Việt thì chịu chết, hic.
Ở Việt Nam ta, có một điều là dù có xảy ra nhiều điều tai tiếng, thiệt hại nhưng trách nhiệm của KTV vẫn còn nằm dài trên lý thuyết. Đa số các công ty kiểm toán đều né đi, hay nói cách khác đã phòng sẵn cho mình những cách ứng xử trước tình huống xấu, hay những rủi ro đưa ra báo cáo với ý kiến ko chấp nhận hay từ chối,v.v...Và thế là, giải đơn thôi, chưa có vụ gì động trời thì Vụ chế độ kế toán và kiểm toán cũng như hiệp hội nghề nghiệp cũng chưa đến nỗi phải liệt kê cả. Anyway, tương lai sắp tới sẽ có nhiều thay đổi, hy vọng thế.
Mặc dù gọi là IAS, tuy nhiên ,mỗi quốc gia ứng dụng vào thực tiễn của mình sẽ chuyển thành IAS riêng, ví dụ IAS 220 (UK and Ireland) hay IAS 240(Phillpine) để phù hợp. Còn SAS, sự thông dụng của nó là đọc dễ hiểu (chẳng trách nước ta dịch y nguyên chuẩn mực số 220 của mình từ SAS240,hic hic), nên act bảo cái nào hay hơn cái nào (nội dung của SAS và IAS là tương đương) thì thu6 chịu.
Public sector Envr : kiểm toán nhà nước còn Private sector FSA là kiểm toán viên độc lập.
Như act nói, SAS 99 ra đời như một sự thay thế cho SAS 82, bao gồm nhiều thủ tục chi tiết hơn SAS 82 nhằm phát hiện ra fraud (tự nhiên quên mất cái nghĩa, hic), có cả chê lẫn khen sau một loạt bê bối của Enron hay Worldcom...và việc ra đời của nó là do sức ép của dư luận, sự mất niềm tin và kỳ vọng vào cái tưởng như là chặt chẽ và audit quality của Mỹ, đồng thời cũng thắt chặt và bổ sung thêm nhiều thủ tục thực hiện nhằm tăng cường khả năng tìm kiếm sai sót trọng yếu (material misstatement), dù nhiều thủ tục, hơ hơ, thực tế thì khó làm hơn khi có sự so sánh giữa chi phí- lợi ích.
Thu6 biết có nhiêu đó à:) (nói chung cũng chẳng trả lời được bao nhiêu)
 
A

act

Guest
29/11/05
85
1
0
TP Hồ Chí Minh
Theo thu6 hiểu thế này nè (có gì act chỉ thêm nha,hihi).
IAS thì thuật ngữ chuyên tu hơn (có nghĩa là, trong một số tài liệu training của BIG4, cái này thu6 biết được do mấy người bạn kiu dịch dùm, hic hic) ví dụ như: tài liệu phổ thông thì là audit team, nhưng trong đấy lại là engagement team, nhưng nói chung thì giải thích thì mình hiểu, nhưng dịch sang tiếng Việt thì chịu chết, hic.
Rất vui vì những trao đổi của thu6tudo, hy vọng sẽ cùng thu6 và các thành viên trao đổi thêm. :bigok:

Sau khi tham khảo tài liệu, act có thấy

- Mặc dù SAS 99 “Xem xét gian lận trong kiểm toán BCTC” về cơ bản không làm thay đổi trách nhiệm của KTV đối với việc phát hiện gian lận so với SAS 82 mà nó thay thế, điểm mới của SAS 99 là cung cấp cho KTV những hướng dẫn cụ thể và những phương pháp chi tiết hơn để đối phó với những rủi ro gian lận gây sai phạm trọng yểu trên BCTC. Chính vì thế, SAS 99 được xem là một trong những nổ lực của AICPA trong việc khôi phục lại niềm tin của công chúng, các nhà đầu tư và lấy lại bức tranh minh bạch về các BCTC được kiểm toán đối với thị trường vốn tại Mỹ.

- Trong khi đó, Vào ngày 01/04/2002 Uỷ ban Quốc tế về Chuẩn mực Kiểm toán và Dịch vụ bảo đảm (International Auditing and Assurance Standards Board – IAASB) được thành lập thay thế cho IAPC có trách nhiệm cao hơn trong việc ban hành những chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISAs) và xác nhận cũng như thúc đẩy sự chấp nhận các chuẩn mực này trên toàn cầu. IAASB còn đóng góp một vai trò không nhỏ giúp nâng cao chất lượng của ngành nghề kiểm toán quốc tế, tăng cường tính thống nhất của dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan trên phạm vi toàn cầu. Với trách nhiệm như thế, năm 2004, IAASB đã công bố thêm hàng loạt những chuẩn mực kiểm toán quốc tế mới nhằm đáp ứng sự gia tăng và sự thay đổi về nhu cầu của người sử dụng đối với thông tin trên BCTC trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay. ISA 240 là một trong những chuẩn mực kiểm toán quốc tế được xem là thay đổi nhiều và mang tính đột phá nhất. ISA 240 với tên gọi : “Trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc xem xét gian lận trong kiểm toán BCTC” thay thế hoàn toàn cho ISA 240 ban hành năm 1994.

Vấn đề đặt ra ở đây là ISA 240 được ban hành, theo nhận xét của act, dựa trên những nội dung cơ bản của SAS 99 nhưng tên của hai chuẩn mực này lại khác nhau, một cái là “Xem xét gian lận trong kiểm toán BCTC” và cái kia là “Trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc xem xét gian lận trong kiểm toán BCTC” . Như vậy so ra phải chăng ISA 240 tiến bộ hơn SAS 99 ?
Nếu có, thì đó là những điểm nào, rất mong mọi người góp ý thêm.
 
A

act

Guest
29/11/05
85
1
0
TP Hồ Chí Minh
Theo thu6 hiểu thế này nè (có gì act chỉ thêm nha,hihi).
IAS thì thuật ngữ chuyên tu hơn (có nghĩa là, trong một số tài liệu training của BIG4, cái này thu6 biết được do mấy người bạn kiu dịch dùm, hic hic) ví dụ như: tài liệu phổ thông thì là audit team, nhưng trong đấy lại là engagement team, nhưng nói chung thì giải thích thì mình hiểu, nhưng dịch sang tiếng Việt thì chịu chết, hic.
Rất vui vì những trao đổi của thu6tudo, hy vọng sẽ cùng thu6 và các thành viên trao đổi thêm. :bigok:

Sau khi tham khảo tài liệu, act có thấy

- Mặc dù SAS 99 “Xem xét gian lận trong kiểm toán BCTC” về cơ bản không làm thay đổi trách nhiệm của KTV đối với việc phát hiện gian lận so với SAS 82 mà nó thay thế, điểm mới của SAS 99 là cung cấp cho KTV những hướng dẫn cụ thể và những phương pháp chi tiết hơn để đối phó với những rủi ro gian lận gây sai phạm trọng yểu trên BCTC. Chính vì thế, SAS 99 được xem là một trong những nổ lực của AICPA trong việc khôi phục lại niềm tin của công chúng, các nhà đầu tư và lấy lại bức tranh minh bạch về các BCTC được kiểm toán đối với thị trường vốn tại Mỹ.

- Trong khi đó, Vào ngày 01/04/2002 Uỷ ban Quốc tế về Chuẩn mực Kiểm toán và Dịch vụ bảo đảm (International Auditing and Assurance Standards Board – IAASB) được thành lập thay thế cho IAPC có trách nhiệm cao hơn trong việc ban hành những chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISAs) và xác nhận cũng như thúc đẩy sự chấp nhận các chuẩn mực này trên toàn cầu. IAASB còn đóng góp một vai trò không nhỏ giúp nâng cao chất lượng của ngành nghề kiểm toán quốc tế, tăng cường tính thống nhất của dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan trên phạm vi toàn cầu. Với trách nhiệm như thế, năm 2004, IAASB đã công bố thêm hàng loạt những chuẩn mực kiểm toán quốc tế mới nhằm đáp ứng sự gia tăng và sự thay đổi về nhu cầu của người sử dụng đối với thông tin trên BCTC trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay. ISA 240 là một trong những chuẩn mực kiểm toán quốc tế được xem là thay đổi nhiều và mang tính đột phá nhất. ISA 240 với tên gọi : “Trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc xem xét gian lận trong kiểm toán BCTC” thay thế hoàn toàn cho ISA 240 ban hành năm 1994.

Vấn đề đặt ra ở đây là ISA 240 được ban hành, theo nhận xét của act, dựa trên những nội dung cơ bản của SAS 99 nhưng tên của hai chuẩn mực này lại khác nhau, một cái là “Xem xét gian lận trong kiểm toán BCTC” và cái kia là “Trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc xem xét gian lận trong kiểm toán BCTC” . Như vậy so ra phải chăng ISA 240 tiến bộ hơn SAS 99 ?
Nếu có, thì đó là những điểm nào, rất mong mọi người góp ý thêm.
 
A

act

Guest
29/11/05
85
1
0
TP Hồ Chí Minh
Cái giá phải trả cho những tham vọng vô biên

Maynard Keynes, nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ, đã từng nói:“Phát minh tinh xảo mà vĩ đại nhất trong lịch sử hàng ngàn năm phát triển của xã hội loài người là thị trường tài chính tiền tệ. Chỉ có điều sau khi phát minh thần kỳ này ra đời, trên thế giới đã diễn ra biết bao nhiêu tấn bi hài kịch xoay quanh nó, và câu chuyện thần tiên về sự đổi đời chỉ sau một đêm mãi mãi là giấc mơ của bất kỳ ai”.

Quả thật, thế giới tài chính luôn hứa hẹn những khoản lợi nhuận khổng lồ. Nhưng nhiều khi để có thể sở hữu những con số lãi đó, không ít công ty đã bất chấp pháp luật và có những hành vi trục lợi cho riêng mình. Điều đáng chú ý là trước hấp lực quá lớn của lợi nhuận, ngay cả một số công ty vốn được đánh giá là khá “hiền lành” cũng vào cuộc. Vừa qua, hãng tin CNN đã công bố danh sách 5 vụ trục lợi tài chính nổi bật nhất trong thời gian vài năm trở lại đây:

1. Worldcom – cái giá phải trả của một “ông lớn”

Cuối năm 2004, theo phán quyết của toà án Mỹ, Bernard Ebbers, 63 tuổi, cựu giám đốc điều hành tập đoàn viễn thông Worldcom, đã phạm tội gian lận chứng khoán và cung cấp các số liệu tài chính không chính xác liên quan đến khoản tiền 11 tỷ USD dẫn đến sự phá sản của một trong những tập đoàn viễn thông lớn nhất nước Mỹ. Với các tội danh trên, Ebbers phải chịu hình phạt tổng cộng lên đến 85 năm tù giam. Ebbers là một trong 6 cựu thành viên ban lãnh đạo của Worldcom bị truy tố sau những bê bối tài chính đưa đến sự sụp đổ của Worldcom.
Bernie Ebbers, cựu huấn luyện viên bóng rổ, đã có công rất lớn trong việc đưa Worldcom từ một công ty nhỏ tại vùng Mississippi hẻo lánh trở thành một trong những tập đoàn viễn thông lớn nhất trên thế giới trong vòng chưa đầy 15 năm. Đã có thời điểm, giá trị của Worldcom trên thị trường chứng khoán vượt qua con số 100 tỷ USD. Mặc dù được đánh giá là một trong những thành viên năng động và nhạy bén nhất Worldcom trong các kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh vào thập kỷ 90, nhưng trước những lời cáo buộc tại toà án rằng Worldcom đã che giấu các cổ đông về những khó khăn tài chính bằng nhiều gian lận kế toán lên đến hàng chục tỷ USD khi công việc kinh doanh sa sút, Ebber luôn nói là mình không biết gì về các chi tiết tài chính của tập đoàn.
Nếu sự gian lận tại Enron liên quan tới các thủ thuật kế toán tinh vi, thì tại Worlcom, các gian lận diễn ra rất đơn giản. Worlcom giả mạo các chỉ số kế toán hiện hành và “lờ đi” các số liệu về vốn mà lẽ ra phải công bố. Theo ước tính, bê bối tài chính tại Worldcom đã khiến các cổ đông của hãng chịu thiệt hại khoảng 180 tỷ USD và làm cho trên 20.000 nhân viên bị mất việc. Chưa kể việc Worlcom sụp đổ đã kéo theo phản ứng dây chuyền kéo theo giá cổ phiếu của nhiều hãng viễn thông khác cũng tụt dốc thê thảm và chính phủ Mỹ buộc phải cải cách lại toàn bộ các quy định hiện hành về kế toán.
Bản án được tuyên đã khiến rất nhiều công tố viên thở phào nhẹ nhõm, bởi vụ xét xử các thành viên của Worlcom được xem là khó khăn nhất trong lịch sử ngành toà án Mỹ. Nhiều chuyên gia kinh tế Mỹ nhận định, rằng việc “mạnh tay” với các thành viên ban lãnh đạo Worldcom là thành công lớn của luật pháp nước này trong cuộc chiến chống tham nhũng và gian lận tài chính.

2. Vivendi – cú đấm mạnh vào thị trường tài chính Pháp

Đầu năm 2004, một sự kiện xảy ra làm chấn động nước Pháp: Tập đoàn truyền thông giải trí hàng đầu của Pháp, Vivendi Universal SA, đã bị cảnh sát khám xét trụ sở làm việc, khi có một số bằng chứng cho rằng Vivendi thực hiện nhiều hành vi gian lận tài chính để trục lợi. Đây chỉ là một phần trong cuộc điều tra về những thoả thuận tài chính bất hợp pháp diễn ra tại Vivendi dưới thời Jean-Marie Messier, cựu giám đốc điều hành Vivendi.
Sau đó không lâu, các công tố viên chính thức khởi tố Vivendi vì đã có các hành vi tạo dựng những kết quả tài chính sai lệch, vi phạm pháp luật tài chính Pháp. Cơ quan chức năng Pháp phát hiện ra dấu hiệu phạm tội của Vivendi dựa trên cơ sở thông tin từ cổ đông nhỏ của Vivendi là APPAC và một thông báo của AMF, một công ty tài chính có mối quan hệ làm ăn với Vivendi. Các cổ đông tỏ ra rất tức giận và đổ tội cho sự quản lý tồi của Messier, người đã đưa con số nợ của Vivendi lên thành 42 tỷ USD. Lợi tức của các cổ đông trong năm 2004 cũng giảm đáng kể, xuống mức thấp nhất trong vòng nhiều năm.
Ngoài ra, giám đốc tài chính của Vivendi là Hubert Dupont-Lhotelain, trợ lý của Hubert là Francois Blondet và giám đốc điều hành Deutsche Bank, Philippe Guez cũng nằm trong diện điều tra vì có những lời cáo buộc rằng họ đã mua lại một số lượng lớn cổ phiếu lớn để nâng giá cổ phiếu của công ty, sau đó bán lại trên thị trường chứng khoán. Không chỉ tại Pháp, Vivendi còn gặp rắc rối với Uỷ ban chứng khoán và hối đoái Mỹ trong một cuộc điều tra tương tự về những hoạt động phạm pháp của Vivendi tại Mỹ. Messier đã phải đề nghị một khoản tiền trị giá 25 triệu USD tiền bồi thường để vụ việc được dàn xếp ổn thoả.
Những bê bối tài chính tại Vivendi như một cú đấm mạnh vào thị trường tài chính Pháp lâu nay vốn tự hào về sự minh bạch và lành mạnh của mình. Messier đã nhận trách nhiệm trong vụ việc và yêu cầu được đặt dưới sự điều tra của các cơ quan chức năng. Điều này là khá bất ngờ, bởi trước đây Messier luôn phủ nhận sự liên quan của mình. Có lẽ Messier biết rằng không thể che giấu các hành vi của được mình nữa khi sự việc đã rõ như ban ngày.

3. Qwest – theo vết xe đổ của Worlcom và Enron

Tập đoàn viễn thông Qwest, Mỹ đã theo chân các đại gia Enron, Worldcom, khi thừa nhận có những hành vi lừa dối các nhà đầu tư về kết quả kinh doanh suốt từ năm 1999 đến nay. Người phát ngôn của Qwest cho biết, trong 3 năm qua, hãng đã thông đồng với các công ty kiểm toán để làm sai lệch khoảng 1,16 tỷ USD liên quan đến doanh thu từ việc kinh doanh các sản phẩm công nghệ viễn thông, qua đó tạo ra giá cổ phiếu “ảo” trên thị trường chứng khoán.
Qwest hiện quản lý gần như nắm trọn hoạt động kinh doanh điện thoại (cung cấp máy và dịch vụ thuê bao) tại 14 bang của Mỹ. Một đoàn thanh tra của quốc hội Mỹ đã kiểm tra toàn bộ sổ sách của hãng vì có thông tin cáo buộc một số quan chức của Qwest gian lận tài chính trên thị trường chứng khoán nhằm duy trì giá cổ phiếu.
Sau khi thừa nhận đã lừa dối các nhà đầu tư, Qwest được Uỷ ban chứng khoán và ngoại hối Mỹ (SEC) cho phép công bố lại kết quả kinh doanh từ 1999 đến nay, nếu không sẽ bị loại khỏi “sân chơi” tại phố Wall. Mặc dù vậy, SEC vẫn quyết định khởi tố vụ kiện chống lại cựu giám đốc điều hành của Qwest và 6 cựu lãnh đạo khác về hành vi lợi dụng lòng tin của các nhà đầu tư để báo cáo gian lận 3 tỷ USD doanh thu trong vụ sáp nhập với một công ty viễn thông khác vào năm 2000 nhằm nâng cao giá trị cổ phiếu. SEC cũng yêu cầu các nhà lãnh đạo bồi hoàn các khoản lợi tức và các quyền lợi phát sinh trong vụ mua bán đó.
Vụ việc đã dấy lên mối lo ngại về gian lận tài chính vẫn tiếp tục gia tăng và trở thành “chuyện thường ngày” tại thị trường chứng khoán, bất chấp những bài học đắt giá từ Worldcom hay Enron.

4. Tyco International - Coi công ty như ngân hàng của riêng mình!

“Xây dựng công ty để hoạt động kinh doanh là chuyện bình thường, nhưng khi sử dụng công ty như một ngân hàng cá nhân để từ đó rút bao nhiêu tiền tuỳ ý, thì chắc chắn sẽ phải trả giá”. Đó là lời buộc tội của các công tố viên trong phiên toà xét xử hồi cuối năm 2004 đối với hai nhân vật hàng đầu của tập đoàn Tyco International vì đã có những hành vi gian lận tài chính, gây ra một trong những vụ bê bối tài chính “ồn ào” nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Sau gần nửa năm điều tra, toà án liên bang Mỹ đã chính thức xét xử vị cựu chủ tịch của Tyco, Dennis Kozlowski, và giám đốc tài chính, Mark Swartz, do đã thực hiện các hoạt động bất hợp pháp trong thời gian quản lý và điều hành Tyco, gây thất thoát một khoản tiền khổng lồ. Bằng cách mua chuộc nhân viên, các vị giám đốc này đã sử dụng công ty như một ngân hàng cá nhân của họ để rút gần 600 triệu USD sử dụng vào mục đích riêng.
Kozlowski và Swartz bị buộc tội có hành vi gian lận chứng khoán, âm mưu chiếm đoạt tiền và làm sai lệch tài liệu giấy tờ. Một vài thành viên lãnh đạo của Tyco xác nhận họ chưa bao giờ thông qua khoản tiền 10 triệu USD tiền thưởng hay bỏ qua các khoản vay của Kozlowski và Swartz. Cả hai đã “mượn tạm” trên 170 triệu USD và thu được khoảng 430 triệu USD tiền lãi thông qua việc buôn bán trái phép cổ phiếu.
Về phía các luật sư biện hộ, họ cho rằng sau các vụ bê bối lớn như Enron hay Worlcom, người dân nước Mỹ đang rất giận dữ với nạn tham những của tập đoàn kinh tế. Do đó, rất có thể sẽ có sự phiến diện khi đánh giá những hành vi của Kozlowski và Swartz. Đồng thời, các luật sư cũng cố gắng tìm kiếm khoảng cách giữa vụ án này với các vụ bê bối nổi cộm khác như Enron, Worlcom hay Adelphia. Tuy nhiên, các công tố viên đã ngay lập tức phản bác rằng: “Phải chăng Kozlowski và Swartz không có thẻ tín dụng? Phải chăng họ không có séc cá nhân? Tại sao Tyco lại trả cho họ tất cả các hoá đơn”.
Vụ án đã kết thúc và theo nhiều người đây là một trong những bài học đắt giá cho nền kinh tế Mỹ vốn đã có rất nhiều vụ bê bối tài chính lớn xảy ra trong thời qua.
5. Giới tư vấn và môi giới chứng khoán phố Wall - chân dung bại lộ
Khi nhấc điện thoại gọi cho luật sư Jacob H Zamansky vào đầu năm 2003, Debases Kanjilai không nghĩ rằng mình có thể tạo ra “trận bão” tại Wall Street. Kanjilai nói rằng ông mất 500.000 USD tiền đầu tư trong công ty Infospace Inc, bởi hãng tư vấn Merrill Lynch & Co khuyên không nên bán cổ phiếu khi nó đang giao dịch ở giá 60 USD. Cuối cùng, thời điểm khi Kanjilai bán cổ phiếu ra thì giá của nó chỉ còn 11 USD.
Vietnamtoday
Nguồn: BwPortal​
 
Sửa lần cuối:
A

act

Guest
29/11/05
85
1
0
TP Hồ Chí Minh
Đây là những nghiên cứu của act trong khóa luận tốt nghiệp của mình, post lên đây để các anh chị và các bạn tham khảo cũng như đóng góp ý kiến thêm về tình hình gian lận BCTCcủa Việt Nam trong những năm gần đây.

Hiện nay tại Việt Nam, theo act được biết hầu như chưa có một công trình nghiên cứu nào về tình hình sai sót và gian lận trong thực tiễn, mặc dù trên thực tế đã có nhiều vụ sai phạm xảy ra được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng, rất nhiều vụ sai phạm đã được tòa án và xét xử. Hơn thế nữa, Việt Nam cũng chưa có một cơ quan chuyên biệt nào thực hiện chức năng quản lý và công bố những gian lận và sai sót trên BCTC, mặc dù ngoài các công ty kiểm toán, Việt Nam còn có nhiều đơn vị thanh tra các cấp, Viện Kiểm sát, quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế, thậm chí các cơ quan thuế… Mặt khác, thị trường chứng khoán Việt Nam tuy đang trong giai đoạn phát triển nhanh chóng, nhưng còn rất non trẻ so với những thị trường chứng khoán trên thế giới, vì thế gian lận đi liền với nó chưa có bề dày lịch sử. Do đó Việt Nam chưa thể có những vụ bê bối tài chính như Enron hay Woldcom, cũng như chưa có những số liệu thống kê về tình hình gian lận BCTC tại các doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam.

Tuy nhiên, đặc điểm của gian lận là xâm nhập và phổ biển rất nhanh chóng. Vì thế đối với một nền kinh tế thị trường đang phát triển rất nóng theo xu hướng toàn cầu hoá, đặc biệt là sự bùng nổ của thị trường chứng khoán trong thời gian qua tại Việt Nam, việc tồn tại và phát triển những hành vi gian lận trên BCTC sẽ ngày càng tinh vi, thậm chí sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với thị trường tài chính Việt Nam là điều không khó xảy ra khi hội đủ ba điều kiện: động cơ (áp lực hay sự khuyến khích), cơ hội và sự hợp lý hoá những hành vi gian lận đó.

Thật ra, gian lận trên BCTC không phải là vấn đề mới đối với nền kinh tế Việt Nam. Phổ biến nhất là những gian lận về thuế của các doanh nghiệp. Động cơ của hành vi này là các doanh nghiệp muốn giảm gánh nặng thuế. Cơ hội để thực hiện điều này là hệ thống luật thuế Việt Nam còn nhiều kẻ hỡ, cán bộ nhìn chung khả năng và phẩm chất chưa cao. Gian lận thuế thường chủ yếu nhắm vào thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Để gian lạn thuế, doanh nghiệp thường phải gian lận trên BCTC vì đặc điểm của kế toán Việt Nam là một trong những cơ sở quan trọng để xem xét về thuế.

Loại gian lận cũng gây ra những hậu quả rất lớn cho nền kinh tế Việt Nam là “lấy nợ nuôi nợ”. Những vụ án lớn như công ty Tamexco với mức thiệt hại khoảng vài trăm tỷ đồng, công ty Minh Phụng với mức thiệt hại trên 4.000 tỷ đồng, hay công ty Epco, Ngân hàng Việt Hoa … đều che dấu gian lận bằng những thủ thuật điều chỉnh BCTC. Khi gian lận được phát hiện, cũng là lúc tình hình tài chính tồi tệ của những doanh nghiệp này bị khám phá qua những khoản nợ khổng lồ đến hạn mà doanh nghiệp không có khả năng thanh toán.
Gian lận trên BCTC để lừa dối cổ đông và chủ nợ tuy chưa phổ biến tại Việt Nam, nhưng đây cũng không phải là vấn đề mới. Một dạng tương tự khá phổ biến là gian lận BCTC trong các doanh nghiệp nhà nước để che dấu thực chất hoạt động thua lỗ của mình. Loại này thường tập trung vào gian lận về chi phí.

Đến khi thị trường chứng khoán được thành lập năm 2000, gian lận trên BCTC coi là lừa dối cổ đông được các phương tiện thông tin đại chúng nhắc đến nhiều nhất là vụ bê bối tài chính của công ty Đồ hộp Hạ Long (CANFOCO). Tháng 10/2002, Viện kiểm sát nhân dân Hải Phòng (VKS) đã có cáo trạng truy tố bị can Lê Đình Liêm (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc CANFOCO) cùng 4 đồng phạm do ký khống 13 hợp đồng kinh tế với các doanh nghiệp phía Nam, tạo điều kiện cho họ chiếm đoạt hơn 7,3 tỷ đồng hoàn thuế VAT. Theo kết luận của VKS, với việc ký khống 13 hợp đồng, họ đã giúp 13 công ty ngoài quốc doanh hoàn thiện hồ sơ xin hoàn thuế VAT, gây thiệt hại cho ngân sách hơn 7,3 tỷ đồng. Ngay sau đó, ngày 1/11/2002, thanh tra UBCKNN cũng đã ký Quyết định về mức xử phạt vi phạm hành chính đối với CANFOCO 10 triệu đồng, vì đã vi phạm quy định công bố thông tin và giao dịch chứng khoán, đồng thời Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cũng đã ra quyết định xử phạt đối với Công ty Tư vấn tài chính, Kế toán và Kiểm toán (AASC) vì những sai phạm của đơn vị này trong việc kiểm toán các sổ sách tài chính của CANFOCO. Đây là lần đầu tiên kể từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động, một công ty kiểm toán bị xử phạt.

Tiếp theo đó là vụ “ 3 lần lỗi hẹn công bố BCTC” và “BCTC lãi 3 quý, lỗ cả năm” của công ty cổ phần Bánh kẹo Biên Hoà (BIBICA), một lần nữa cho thấy nhu cầu ngày càng cao của các nhà đầu tư đối với một BCTC phản ánh thông tin trung thực và hợp lý của doanh nghiệp. Ngày 23/05/2003, BIBICA đã công bố BCTC năm 2002 (đã kiểm toán) cho thấy, cả năm 2002 BIBICA lỗ 5,4 tỷ đồng, trong khi BCTC ba quý đầu năm rất khả quan, lãi 4,1 tỷ đồng, đồng thời kèm theo văn bản giải trình là do gánh nặng chi phí dồn vào cuối năm. Đồng thời BIBICA đã ''nhận lỗi'' trong văn bản giải trình rằng : trong quản lý điều hành còn nhiều mặt hạn chế để kết quả trong năm 2002 không được tốt đẹp như kế hoạch đề ra cũng như mong muốn của các cổ đông, các nhà đầu tư. Công ty nhìn nhận nhược điểm lớn nhất trong thời gian qua là hệ thống quản trị tài chính kế toán còn yếu, không cập nhật và phản ánh kịp thời tình hình tài chính dẫn đến sai sót khi tổng hợp cuối năm.
Tuy nhiên, theo một số nhà đầu tư, BCTC và giải trình vừa công bố của BIBICA chỉ mới thể hiện được phần nổi của ''tảng băng chìm''? Trong 5 tháng của năm 2003, một số thành viên nòng cốt trong Hội đồng quản trị (HĐQT) của BIBICA đã bán một lượng lớn cổ phiếu, điển hình là trường hợp ông Lâm Vĩnh. Điều này không thể tránh được nghi vấn của nhà đầu tư cho rằng, thành viên HĐQT bán cổ phiếu này là do nắm rõ tình hình làm ăn kém hiệu quả? Rồi việc Kế toán trưởng BIBICA xin nghỉ việc (từ ngày 7/3/2003) có liên quan gì đến việc chậm quyết toán và liệu có gian lận tài chính xảy ra hay không ?
Nói tóm lại, gian lận trên BCTC đã, đang và sẽ trở thành một trong những mối đe doạ nghiêm trọng nhất đối với thị trường tại chính cũng như nền kinh tế Việt Nam.
 
Thanh Nam

Thanh Nam

Admin
Thành viên BQT
Quản lý cao cấp
24/4/03
3,315
1,125
113
HCM
www.famaconsulting.vn
Nói tóm lại, gian lận trên BCTC đã, đang và sẽ trở thành một trong những mối đe doạ nghiêm trọng nhất đối với thị trường tại chính cũng như nền kinh tế Việt Nam.

Tiếc một điều là từ kinh nghiệm thực tế, phần lớn BCTC của các cty VN mà mình biết đều có số liệu là những số ma, quỷ, không phải là những số "trung thực và hợp lý". Thêm vào đó, các cty kiểm tóan vì "nồi cơm manh áo" hoặc là do trình độ khi đi kiểm tóan chỉ căn cứ vào những con số "dành cho báo cáo thuế" nên hậu quả là kết quả kiểm tóan như thế nào thì các bạn cũng rõ.
Hy vọng quá trình cổ phần hóa các công ty sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng BCTC chỉ là những con số xào nấu.
 
Đ

Đoàn Minh Trung

Gió thổi dừa rơi
23/12/06
935
24
18
TX Bến Tre
Tiếc một điều là từ kinh nghiệm thực tế, phần lớn BCTC của các cty VN mà mình biết đều có số liệu là những số ma, quỷ, không phải là những số "trung thực và hợp lý". Thêm vào đó, các cty kiểm tóan vì "nồi cơm manh áo" hoặc là do trình độ khi đi kiểm tóan chỉ căn cứ vào những con số "dành cho báo cáo thuế" nên hậu quả là kết quả kiểm tóan như thế nào thì các bạn cũng rõ.
Hy vọng quá trình cổ phần hóa các công ty sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng BCTC chỉ là những con số xào nấu.

- Có một cty b/q 1 tháng viết hết 8 cuốn hóa đơn GTGT, thế mà kiểm toán một năm tài chính với một kiểm toán viên làm việc chỉ hết có 2 buổi - một buổi kiểm tra & một buổi cho kế toán cty điều chỉnh lại số liệu rồi lập lại BCTC, rùi cty kiểm toán lập BB kiểm toán . Thế là xong.

- Thử hỏi kiểm toán như vậy thì chất lượng sao được !!!
 
T

thu6tudo

I have changed
24/6/06
345
3
0
Đồng Nai
Lại là vấn đề này...Hãy hiểu rõ bản chất của gian lận và sai sót đi nào..Những rủi ro này xuất phát từ đâu, những ai có liên quan và liên quan như thế nào?
Kiểm toán viên không là người phải tìm ra tất cả, mà chỉ là cái trọng yếu để đảm bảo một kết luận hợp lý mà thôi.
Thu6 làm đề tài về chất lượng kiểm toán đây này. Ai có thời gian xin cứ trao đổi!!!!:(
Không thể chỉ đứng về phía ngoài mà nhìn nhận được, bản thân đã muốn giấu kỹ thì không ai có thể phát hiện ra được, nếu không mất một khoảng thời gian nào đó. Không thể đòi hỏi kiểm toán viên thực hiện kiểm toán trong 1 thời gian dài hay thời gian ngắn, mà thời gian ấy đánh giá được gì và có nói được gì cho chất lượng kiểm toán hay không??:(
 
A

act

Guest
29/11/05
85
1
0
TP Hồ Chí Minh
- Có một cty b/q 1 tháng viết hết 8 cuốn hóa đơn GTGT, thế mà kiểm toán một năm tài chính với một kiểm toán viên làm việc chỉ hết có 2 buổi - một buổi kiểm tra & một buổi cho kế toán cty điều chỉnh lại số liệu rồi lập lại BCTC, rùi cty kiểm toán lập BB kiểm toán . Thế là xong.

- Thử hỏi kiểm toán như vậy thì chất lượng sao được !!!

Theo ý kiến của act nha, để đánh giá chất lượng của cuộc kiểm toán thì phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Đồng ý với Đoàn Minh Trung, hiện nay chất lượng kiểm toán của các công ty Kiểm toán của Việt Nam chưa thật sự đáp ứng với yêu cầu của xã hội. Đây không chỉ là vấn đề của riêng ngành kiểm toán Việt Nam đâu mà còn là vấn đề chung của ngành kiểm toán trên thế giới, nên mới có khái niệm "expectation gap" (giải thích một cách nôm na là khoảng cách giữa nhu cầu của xã hội và khả năng đáp ứng của ngành nghề kiểm toán-eg).

Trong đó hai nhân tố chính tác động đến "eg" là :
- Khoảng cách do yêu cầu quá cao của xã hội đối với nghề nghiệp KTV, như thu6tudo đã nói cần phải phân biệt đâu là trách nhiệm của KTV và đâu là trách nhiệm của nhà quản lý. Và BCTC được kiểm toán không phải là BCTC chính xác, đơn vị không phá sản...(phần này đã được bàn rất nhiều trong các topic trước, các bạn có thể search và tham khảo thêm)
- Khoảng cách dịch vụ chưa hoàn hảo do chuẩn mực KT chưa đạt yêu cầu và do trách nhiệm của KTV chưa hoàn thanh trong từng trường hợp cụ thể.

Trên đây là những ý kiến của act. Topic này act tạo ra với mục đích muốn tìm hiểu thêm về thực tế những sai lệch trên BCTC do sai sót hay gian lận gây ra . Đồng thời act cũng muốn tìm hiểu thêm về các thủ tục kiểm toán mà KTV đã thực hiện để phát hiện và đối phó với những sai lệch tìm được đó. Có lẽ mục đích hơi mang tính lý thuyết, nhưng thật sự act rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các anh chị và các bạn trên diễn đàn.
 

Xem nhiều