Theo mình hiểu:
Mỗi sản phẩm SX đều có có ĐM. Khi các chi phí vượt trên ĐM thì không được tính vào GT của SP đó mà HT thẳng vào 632 cho SP bán ra trong kỳ.
Ví dụ: 1 SP có ĐM 5kg sắt/ 1SP khi DN xuất 10 kg thì 5 kg vào nợ 154 còn 5 kg nợ 632. Các chi phí khác cũng vậy.
Thực ra những SP có khối lượng lớn, thời gian SX dài như XD, đóng tàu ... thì việc theo dõi chi tiết chi phí vượt ĐM theo kỳ KT là không thể vì: Trong kỳ có KL hoàn thành, có KL DD. Trong QT thi công có cái làm đúng thiết kế, có cái KL phát sinh tăng, có cái giảm ( do yêu cầu thực tế ) Có kết cấu khi thi công lãng phí ( như trát trần, phào, trát dầm .. ) có kết cấu khi thi công tiết kiệm ( như đổ B.tông móng, nền, láng nền ... ) vì vậy khi có khối lượng hoàn thành nghiệm thu toàn bộ mới tính được có vượt hay không !!!
Bây giờ mình hiểu câu này rồi, câu này thuộc môn kế toán chi phí, trong kế toán chi phí có phần tính giá theo phương pháp chi phí công việc. Khi phân bổ chi phí sản xuất chung, kế toán đã dự định phân bổ từ trước, nhưng thực tế sẽ có chênh lệch, cuối kì, phần chênh lệch này nếu ít , không trọng yếu thì sẽ tính trực tiếp vào giá vốn hàng bán.
Điều này đồng nghĩa với , nếu chi phí SXC thực tế > định mức thì giá vốn hàng bán tăng
và ngược lại, thực tế < định mức thì giá vốn hàng bán sẽ giảm.
Định khoản :
Thực tế lớn hơn định mức : Nợ 632 : phần chênh lệch
có 627
Thực tế nhỏ hơn định mức : Nợ 627 : phần chênh lệch
Có 632
Tuy nhiên trong trường hợp chênh lệch giữa thực tế và định mức lớn ( coi là trọng yếu ) thì phần chênh lệch này sẽ được phân bổ vào 632, 154, 155.
ĐỊnh khoản : Thực tế > định mức : Nợ 632
Nợ 154
Nợ 155
Có 627