1. Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 (VSA 200), “Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính là làm tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với báo cáo tài chính, thông qua việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không”.
2. Trách nhiệm của Ban quản trị
Trách nhiệm áp dụng các chính sách kế toán hợp lý, duy trì kiểm soát nội bộ thích đáng, và trình bày báo cáo tài chính hợp lý đặt lên vai Ban quản trị chứ không phải kiểm toán viên. Bởi vì họ điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày, các Ban quản trị của một công ty có thể biết rõ hơn về các nghiệp vụ của công ty và các tài sản, nợ phải trả, vốn chủ liên quan so với kiểm toán viên. Ngược lại, hiểu biết của kiểm toán viên về các vấn đề trên và kiểm soát nội bộ chỉ giới hạn đến những gì được thu thập trong suốt cuộc kiểm toán.
Trách nhiệm của nhà quản lý về tính trung thực và hợp lý của việc trình bày (các cơ sở dẫn liệu) trong các báo cáo tài chính gắn với đặc quyền quyết định những gì được trình bày và công bố mà Ban quản trị cho rằng là cần thiết. Nếu Ban quản trị khăng khăng giữ quan điểm về công bố báo cáo tài chính mà kiểm toán viên cho rằng không thể chấp nhận được, kiểm toán viên có thể phát hành báo cáo kiểm toán không chấp nhận, ngoại trừ hoặc rút ra khỏi hợp đồng.
3. Trách nhiệm của kiểm toán viên
Chuẩn mực kiểm toán VSA 200 quy định: Mục tiêu tổng thể của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính là: (a) Đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng liệu báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không, từ đó giúp kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, trên các khía cạnh trọng yếu hay không; (b) Lập báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính và trao đổi thông tin theo quy định của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, phù hợp với các phát hiện của kiểm toán viên.
4. Các chu kỳ báo cáo tài chính
Các cuộc kiểm toán được thực hiện bằng cách chia các báo cáo tài chính thành các bộ phận cấu thành. Việc chia này giúp cho cuộc kiểm toán dễ quản lý hơn và hỗ trợ việc phân chia nhiệm vụ cho các thành viên khác nhau của nhóm kiểm toán. Mỗi bộ phận cấu thành được kiểm toán riêng nhưng không hoàn toàn độc lập. Sau khi kiểm toán xong mỗi bộ phận cấu thành, bao gồm các mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, kết quả kiểm toán được tổng hợp lại. Kết luận có thể được đưa ra về tổng thể báo cáo tài chính.
Có một số cách chia các bộ phận cấu thành của một cuộc kiểm toán. Một phương pháp là xem mỗi số dư tài khoản trên các báo cáo là một bộ phận riêng rẽ. Việc phân chia theo cách này thường không hiệu quả. Nó dẫn đến hậu quả là việc kiểm toán một cách độc lập các tài khoản có liên hệ mật thiết với nhau như hàng tồn kho và giá vốn hàng bán.
Một cách chia phổ biến trong kiểm toán là nhóm các loại nghiệp vụ và số dư tài khoản có liên quan chặt chẽ với nhau vào chung một bộ phận cấu thành. Phương pháp này gọi là phương pháp chu kỳ. Ví dụ: bán hàng, hàng bán bị trả lại, thu tiền, xóa sổ nợ không đòi được là các loại nghiệp vụ làm cho khoản phải thu khách hàng tăng và giảm. Do đó chúng thuộc về cùng một chu kỳ là bán hàng và thu tiền. Một cuộc kiểm toán công ty thương mại có thể được chia thành các chu kỳ: Bán hàng và thu tiền, Mua hàng và thanh toán, Lương và nhân sự, Hàng tồn kho và bảo quản, Huy động vốn và hoàn trả.
5. Thiết lập các mục tiêu kiểm toán
Các kiểm toán viên tiến hành các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính sử dụng cách tiếp cận chu kỳ bằng việc thực hiện các thử nghiệm về các nghiệp vụ tạo nên các số dư tài khoản cũng như tiến hành các thử nghiệm đối với các số dư tài khoản và các công bố liên quan.
Giả sử rằng số dư đầu kỳ của tài khoản Phải thu khách hàng $17,521 (nghìn) đã được kiểm toán năm trước và do đó nó được xem là trình bày trung thực. Nếu kiểm toán viên có thể đảm bảo hoàn toàn chắc chắn là mỗi loại nghiệp vụ trong 4 loại nghiệp vụ được ghi chép và báo cáo đúng đắn, kiểm toán viên cũng có thể đảm bảo rằng số dư cuối kỳ $20,197 (nghìn) được báo cáo đúng đắn. Nhưng thông thường là không khả thi để kiểm toán viên đảm bảo tuyệt đối chính xác của mỗi loại nghiệp vụ, và kết quả là không thể đảm bảo hoàn toàn về số dư của tài khoản Phải thu khách hàng. Trong hầu hết các cuộc kiểm toán, sự đảm bảo một cách tổng thể có thể tăng lên bằng cách kiểm toán số dư của tài khoản Phải thu khách hàng. Các kiểm toán viên nhận thấy rằng, cách thức hiệu quả và khả thi nhất để tiến hành các cuộc kiểm toán là đi thu thập các bằng chứng kết hợp giữa việc đảm bảo của mỗi loại nghiệp vụ và số dư các tài khoản liên quan.
Đối với mỗi loại nghiệp vụ, một vài mục tiêu kiểm toán cần thỏa mãn trước khi kiểm toán viên kết luận rằng các nghiệp vụ được ghi chép đúng đắn và chúng được gọi là các mục tiêu kiểm toán liên quan đến các nghiệp vụ. Tương tự như vậy, một và mục tiêu kiểm toán cần được thỏa mãn cho mỗi số dư tài khoản và được gọi là mục tiêu kiểm toán liên quan đến số dư. Bên cạnh đó còn có các mục tiêu kiểm toán liên quan đến việc trình bày và công bố các thông tin trên các báo cáo tài chính.
6. Cơ sở dẫn liệu
Để khẳng định rằng báo cáo tài chính tuân thủ khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, Ban Giám đốc cần khẳng định chính thức hoặc ngầm định các cơ sở dẫn liệu về việc ghi nhận, đo lường, trình bày và công bố các thành phần của báo cáo tài chính và các thuyết minh liên quan. Cơ sở dẫn liệu là các khẳng định của Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán một cách trực tiếp hoặc dưới hình thức khác về các khoản mục và thông tin trình bày trong báo cáo tài chính và được kiểm toán viên sử dụng để xem xét các loại sai sót có thể xảy ra (VSA 315). Cơ sở dẫn liệu bao gồm ba nhóm:
- Cơ sở dẫn liệu với nhóm giao dịch và sự kiện trong kỳ được kiểm toán.
- Cơ sở dẫn liệu đối với các số dư các tài khoản tại thời điểm cuối kỳ.
- Cơ sở dẫn liệu về việc trình bày và công bố
Các cơ sở dẫn liệu cụ thể trong từng nhóm được thể hiện trong Bảng I-1.
Bảng I-1
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 (VSA 200), “Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính là làm tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với báo cáo tài chính, thông qua việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không”.
2. Trách nhiệm của Ban quản trị
Trách nhiệm áp dụng các chính sách kế toán hợp lý, duy trì kiểm soát nội bộ thích đáng, và trình bày báo cáo tài chính hợp lý đặt lên vai Ban quản trị chứ không phải kiểm toán viên. Bởi vì họ điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày, các Ban quản trị của một công ty có thể biết rõ hơn về các nghiệp vụ của công ty và các tài sản, nợ phải trả, vốn chủ liên quan so với kiểm toán viên. Ngược lại, hiểu biết của kiểm toán viên về các vấn đề trên và kiểm soát nội bộ chỉ giới hạn đến những gì được thu thập trong suốt cuộc kiểm toán.
Trách nhiệm của nhà quản lý về tính trung thực và hợp lý của việc trình bày (các cơ sở dẫn liệu) trong các báo cáo tài chính gắn với đặc quyền quyết định những gì được trình bày và công bố mà Ban quản trị cho rằng là cần thiết. Nếu Ban quản trị khăng khăng giữ quan điểm về công bố báo cáo tài chính mà kiểm toán viên cho rằng không thể chấp nhận được, kiểm toán viên có thể phát hành báo cáo kiểm toán không chấp nhận, ngoại trừ hoặc rút ra khỏi hợp đồng.
3. Trách nhiệm của kiểm toán viên
Chuẩn mực kiểm toán VSA 200 quy định: Mục tiêu tổng thể của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính là: (a) Đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng liệu báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không, từ đó giúp kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, trên các khía cạnh trọng yếu hay không; (b) Lập báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính và trao đổi thông tin theo quy định của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, phù hợp với các phát hiện của kiểm toán viên.
4. Các chu kỳ báo cáo tài chính
Các cuộc kiểm toán được thực hiện bằng cách chia các báo cáo tài chính thành các bộ phận cấu thành. Việc chia này giúp cho cuộc kiểm toán dễ quản lý hơn và hỗ trợ việc phân chia nhiệm vụ cho các thành viên khác nhau của nhóm kiểm toán. Mỗi bộ phận cấu thành được kiểm toán riêng nhưng không hoàn toàn độc lập. Sau khi kiểm toán xong mỗi bộ phận cấu thành, bao gồm các mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, kết quả kiểm toán được tổng hợp lại. Kết luận có thể được đưa ra về tổng thể báo cáo tài chính.
Có một số cách chia các bộ phận cấu thành của một cuộc kiểm toán. Một phương pháp là xem mỗi số dư tài khoản trên các báo cáo là một bộ phận riêng rẽ. Việc phân chia theo cách này thường không hiệu quả. Nó dẫn đến hậu quả là việc kiểm toán một cách độc lập các tài khoản có liên hệ mật thiết với nhau như hàng tồn kho và giá vốn hàng bán.
Một cách chia phổ biến trong kiểm toán là nhóm các loại nghiệp vụ và số dư tài khoản có liên quan chặt chẽ với nhau vào chung một bộ phận cấu thành. Phương pháp này gọi là phương pháp chu kỳ. Ví dụ: bán hàng, hàng bán bị trả lại, thu tiền, xóa sổ nợ không đòi được là các loại nghiệp vụ làm cho khoản phải thu khách hàng tăng và giảm. Do đó chúng thuộc về cùng một chu kỳ là bán hàng và thu tiền. Một cuộc kiểm toán công ty thương mại có thể được chia thành các chu kỳ: Bán hàng và thu tiền, Mua hàng và thanh toán, Lương và nhân sự, Hàng tồn kho và bảo quản, Huy động vốn và hoàn trả.
5. Thiết lập các mục tiêu kiểm toán
Các kiểm toán viên tiến hành các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính sử dụng cách tiếp cận chu kỳ bằng việc thực hiện các thử nghiệm về các nghiệp vụ tạo nên các số dư tài khoản cũng như tiến hành các thử nghiệm đối với các số dư tài khoản và các công bố liên quan.
Giả sử rằng số dư đầu kỳ của tài khoản Phải thu khách hàng $17,521 (nghìn) đã được kiểm toán năm trước và do đó nó được xem là trình bày trung thực. Nếu kiểm toán viên có thể đảm bảo hoàn toàn chắc chắn là mỗi loại nghiệp vụ trong 4 loại nghiệp vụ được ghi chép và báo cáo đúng đắn, kiểm toán viên cũng có thể đảm bảo rằng số dư cuối kỳ $20,197 (nghìn) được báo cáo đúng đắn. Nhưng thông thường là không khả thi để kiểm toán viên đảm bảo tuyệt đối chính xác của mỗi loại nghiệp vụ, và kết quả là không thể đảm bảo hoàn toàn về số dư của tài khoản Phải thu khách hàng. Trong hầu hết các cuộc kiểm toán, sự đảm bảo một cách tổng thể có thể tăng lên bằng cách kiểm toán số dư của tài khoản Phải thu khách hàng. Các kiểm toán viên nhận thấy rằng, cách thức hiệu quả và khả thi nhất để tiến hành các cuộc kiểm toán là đi thu thập các bằng chứng kết hợp giữa việc đảm bảo của mỗi loại nghiệp vụ và số dư các tài khoản liên quan.
Đối với mỗi loại nghiệp vụ, một vài mục tiêu kiểm toán cần thỏa mãn trước khi kiểm toán viên kết luận rằng các nghiệp vụ được ghi chép đúng đắn và chúng được gọi là các mục tiêu kiểm toán liên quan đến các nghiệp vụ. Tương tự như vậy, một và mục tiêu kiểm toán cần được thỏa mãn cho mỗi số dư tài khoản và được gọi là mục tiêu kiểm toán liên quan đến số dư. Bên cạnh đó còn có các mục tiêu kiểm toán liên quan đến việc trình bày và công bố các thông tin trên các báo cáo tài chính.
6. Cơ sở dẫn liệu
Để khẳng định rằng báo cáo tài chính tuân thủ khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, Ban Giám đốc cần khẳng định chính thức hoặc ngầm định các cơ sở dẫn liệu về việc ghi nhận, đo lường, trình bày và công bố các thành phần của báo cáo tài chính và các thuyết minh liên quan. Cơ sở dẫn liệu là các khẳng định của Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán một cách trực tiếp hoặc dưới hình thức khác về các khoản mục và thông tin trình bày trong báo cáo tài chính và được kiểm toán viên sử dụng để xem xét các loại sai sót có thể xảy ra (VSA 315). Cơ sở dẫn liệu bao gồm ba nhóm:
- Cơ sở dẫn liệu với nhóm giao dịch và sự kiện trong kỳ được kiểm toán.
- Cơ sở dẫn liệu đối với các số dư các tài khoản tại thời điểm cuối kỳ.
- Cơ sở dẫn liệu về việc trình bày và công bố
Các cơ sở dẫn liệu cụ thể trong từng nhóm được thể hiện trong Bảng I-1.
Bảng I-1
| Các cơ sở dẫn liệu quản lý cho mỗi loại cơ sở dẫn liệu |