Mối quan hệ giữa Phật giáo và văn học

  • Thread starter dieuthuyenvtt
  • Ngày gửi
D

dieuthuyenvtt

Sơ cấp
14/4/15
0
0
1
31
geeglenews.com
Đạo Phật -Phật giáo vốn là tôn giáo vì con người và về con người, hướng con người vươn tới tình thương yêu bao la, mênh mông, với tư tưởng từ bi hỷ xả; và đặc biệt chú trọng đến những con người đau khổ. Chính tư tưởng này lại bắt gặp tư tưởng của dân tộc.

Tôn giáo và văn học nghệ thuật

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội kiến trúc thượng tầng. Văn học cũng là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng. Giữa tôn giáo và văn học nghệ thuật có mối quan hệ như thế nào cũng như sự ảnh hưởng, tác động của tôn giáo đối với văn học ra sao là điều cần đề cập đến bởi đó là vấn đề cơ sở có tính phương pháp luận khi tìm hiểu đặc điểm của một bộ phận văn học gắn liền với tôn giáo.

Thời trung đại, ở các nước phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng đã chịu ảnh hưởng sâu đậm Nho giáo, Phật giáo và tư tưởng Lão – Trang. Vấn đề này, trước đây đã có nhiều nhà nghiên cứu triết học, văn học đề cập đến. Nhìn chung, trong các công trình, nhất là trong các bộ văn học sử, các tác giả chỉ bàn nguồn gốc của vấn đề như tư tưởng Nho, Phật, Lão – Trang là gì? và đề cập ảnh hưởng của hệ tư tưởng này đối với đời sống tư tưởng tình cảm, đời sống xã hội, chứ chưa trình bày có tính thuyết phục ảnh hưởng của chúng đối với văn học trung đại Việt Nam.

Gần đây vấn đề này, ít nhiều đã được các chuyên gia đầu ngành chú ý đến, dù mới chỉ là những ý kiến gợi mở nhưng rất xác đáng và có ý nghĩa phương pháp luận của GS Đặng Thanh Lê, GS Nguyễn Đình Chú, PGS Trần Đình Hượu. Trong các bài viết “Trước tác kinh điển Nho giáo với văn học Việt Nam” và “Một số vấn đề phân tích ảnh hưởng văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX”, GS Đặng Thanh Lê đã chỉ ra rằng chính các trước tác kinh điển Nho giáo là ngọn nguồn vô tận để khơi gợi cảm hứng sáng tác.

Từ tư tưởng nhân nghĩa, bác ái đầy tình yêu thương con người đã dẫn đến khuynh hướng cảm hứng về chí nam nhi… Mặt khác, ngoài giá trị gợi ý khuynh hướng sáng tác, các trước tác kinh điển còn để lại cho văn học đời sau một số hình tượng nghệ thuật trở thành nguồn thi liệu giúp cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác.

Và do ảnh hưởng của tư tưởng triết học đối với tác phẩm văn học nên khi nghiên cứu, phân tích văn học trung đại cần phải thấy rằng Nho giáo, Phật giáo, tư tưởng Lão – Trang trước hết là sự kiện văn hoá tư tưởng trong lịch sử phát triển xã hội. Cần nghiên cứu nó với tư cách là một sự kiện văn học, một hiện tượng văn học và hệ thống lý thuyết các tôn giáo, các học phái đó đã có sự chuyển hoá thành cảm hứng sáng tác.

Cho nên tư tưởng Tam giáo khi đi vào thế giới văn chương là đi vào những bến bờ mới sinh động, mênh mông vô tận của dòng cảm hứng sáng tạo. Phân tích các tác phẩm văn học chịu ảnh hưởng tư tưởng trên là phân tích từ hình tượng nhân vật, hình tượng thiên nhiên chứ không phải bằng những thuật ngữ, những khái niệm, những suy tư duy lý và những mệnh đề triết học. Đồng thời, cần phải thấy được mối quan hệ vừa đối lập vừa ảnh hưởng, trong đó có sự gặp gỡ và hoà hợp giữa các yếu tố tích cực của Tam giáo với cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân văn.

GS Nguyễn Đình Chú đã chỉ rõ muốn hiểu văn học trung đại cần phải hiểu chữ “Tâm”. Chữ “Tâm” của thời cổ, trung đại không chỉ là chuyện văn chương mà trước hết là chuyện của triết học nhân sinh. Nho và Phật đều lấy chữ “Tâm” làm nội dung cốt lõi của học thuyết. Tâm không chỉ là tấm lòng, là tình cảm, đạo đức tốt đẹp mà còn mang một hàm nghĩa phong phú, bao trùm, huyền diệu, mang ý nghĩa triết học.

Đối với Nho giáo, cần hiểu chữ “Tâm” theo nghĩa rộng là cái thần linh làm chủ thể cả tư tưởng cùng hành vi con người. Tâm càng tĩnh, trực giác càng mẫn nhuệ. Phật giáo thì coi trọng chữ Tâm – trực giác tâm linh. Do đó chữ “Tâm” của Phật giáo liên quan tới sự khai thác triệt để thế giới tâm linh, sự huy động tối đa cái phần vô thức, tâm thức, tiềm thức, cảm thức của con người hơn là phần ý thức, tự thức, nhận thức. Riêng ở khía cạnh tình thương thì chữ “Tâm” của Phật là bao la vô hạn định đối với chúng sinh, đối với muôn loài.

Bên cạnh chữ Tâm, nghiên cứu văn học trung đại cần phải hiểu những vấn đề xung quanh các thuật ngữ “ngã”, “phi ngã”, “vô ngã” bởi lẽ đó là những tư tưởng trong học thuyết Nho, Phật mà văn học trung đại chịu ảnh hưởng.

Trên đây là những gợi dẫn thật sâu sắc và bổ ích để người viết bài này ít nhiều thấy được mối quan hệ giữa tôn giáo, cụ thể là Nho giáo, Phật giáo, tư tưởng Lão – Trang với văn học nghệ thuật, cũng như ảnh hưởng của chúng đối với văn học trung đại Việt Nam, nhất là đối với văn học Lý – Trần.

a. Trước hết là Nho giáo.

Nho giáo đối với văn học trung đại Việt Nam vừa cản trở lại vừa hỗ trợ, nâng đỡ. Cản trở là vì Nho giáo coi trọng trật tự, đề cao khuôn phép, quy phạm, gò bó con người trong tam cương, ngũ thường. Đặc biệt coi trọng tôn ty, đề cao chữ “Lễ”. Cho nên con người Nho giáo là con người “khắc kỷ phục lễ”, gác bỏ cá tính để đi vào cộng đồng. Có cái ta mà không có cái tôi cá nhân. Vì thế ít nhiều làm khô cạn đi sức tưởng tượng bay bổng đầy sáng tạo của văn học nghệ thuật. Điều này hoàn toàn đối lập sáng tạo văn học nghệ thuật, bởi văn học đề cao cá thể, đề cao cá tính sáng tạo với chất phóng khoáng, cởi mở. Nói Nho giáo hỗ trợ, nâng đỡ sự phát triển của văn học là vì cũng do tính quy phạm, đề cao tôn ty trật tự, đề cao đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội nên góp phần tạo được phẩm chất đạo lý trong văn chương.

Hơn ở đâu hết, văn học trung đại Việt Nam lại thể hiện cả một “khí quyển” tâm lý đạo đức Nho giáo. Đạo lý của Nho giáo vào Việt Nam gặp gỡ đạo lý của nhân dân tạo thành một cảm hứng mãnh liệt thể hiện rõ nét trong văn học. Nho giáo từng dạy và đã đào tạo được những con người “chí công vô tư”, “xả thân chủ nghĩa”, “tiến ưu hậu lạc”, “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”, “trọng nghĩa khinh tài”. Và trong thực tế cuộc sống, không thiếu những con người đã sống và chết đúng với lời dạy trên của thánh hiền. văn học trung đại Việt Nam cũng đã khắc hoạ được hình tượng những con người nghĩa khí như thế [9]. Nhờ chất nghĩa khí cứng cỏi này mà văn chương mang tính thanh cao, khoẻ khoắn đầy khát vọng. Văn học đạo lý và văn học yêu nước bắt nguồn từ sự gặp gỡ này của Nho giáo và nhân dân.

Còn Phật giáo có khác. Tư tưởng triết học Phật giáo là tư tưởng triết học hướng nội, chú trọng đến chữ “tâm”, đến trực cảm tâm linh, đến trực giác. Đó là tư tưởng triết học hướng về con người với đời sống tâm linh. Điều này khác với tư duy Nho giáo. Tư tưởng Nho giáo có nói đến trực giác nhưng đó là trực giác lý tính. Phật giáo với quan niệm cuộc đời là bể khổ, bến mê, với quy luật sinh lão bệnh tử nên tìm cách giải thoát con người ra khỏi cuộc đời đầy khổ ải đắng cay ấy bằng tám con đường chính “bát chánh đạo”.

Đó là con đường tu hành – tu tâm dưỡng tính để đạt đến chân như, niết bàn, tức đạt đến Phật tính. Mà Phật tính chính là cái tâm chân như. Tu là sự kìm tâm một chỗ, không vọng tưởng, hoàn toàn lắng đọng, tịch tĩnh. Phật là tâm. Tâm yên lặng tịch tĩnh là Phật: “Tâm tịch, nhi tri thị danh chân Phật” (Trần Thái Tông, Thiền tông chỉ nam tự). Thiền tông coi trọng cái tâm, coi trọng trực giác trong phương pháp tu hành.


>> Xem thêm: Đệ Tử Quy

Phật giáo vốn là tôn giáo vì con người và về con người, hướng con người vươn tới tình thương yêu bao la, mênh mông, với tư tưởng từ bi hỷ xả; và đặc biệt chú trọng đến những con người đau khổ. Chính tư tưởng này lại bắt gặp tư tưởng của dân tộc. Con người Việt Nam vốn có tư tưởng dân chủ, phóng khoáng, nên khi Phật giáo vào Việt Nam, dân tộc ta đã biết tự mở của tiếp thu tinh hoa của tư tưởng Phật giáo rồi tiếp biến, chuyển hoá nó thành cái riêng của mình, phù hợp với dân tộc mình và truyền phát, nhân rộng tư tưởng ấy từ đời này sang đời khác.

Chính cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa trong văn học trung đại Việt Nam là kết quả của sự gặp gỡ giữa tư tưởng từ bi cao cả của Phật với lòng nhân ái bao dung của dân tộc, và ít nhiều từ tư tưởng nhân nghĩa của Nho gia. Ngoài ra, những vấn đề khác thuộc lĩnh vực Phật học, Thiền học cũng được các tác giả đề cập rõ nét trong văn chương như hữu – vô, sắc – không, chân – võng, sinh – tử, nghiệp duyên, nhân quả, chân như, niết bàn v.v..

b. Nhìn từ góc độ bề ngoài của mối quan hệ giữa tôn giáo và văn học nghệ thuật thì:

– Tôn giáo và văn học nghệ thuật đều là những hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng. Chúng tồn tại song song nhau, đi sóng đôi với nhau, đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Đây là một hiện tượng có tính phổ biến toàn nhân loại. Chẳng hạn, thần thoại Hy La với trạng thái tư duy thần linh, mang dáng dấp của tôn giáo nguyên thuỷ (đa thần giáo). Thần thoại Việt Nam với ước muốn vươn tới giải thích các hiện tượng thiên nhiên cũng bằng trạng thái tư duy thần linh, mà thần linh đó gắn liền với các hiện tượng thiên nhiên, mang dáng dấp của tín ngưỡng vật linh: thờ nhiên thần, đạo tam phủ, tứ phủ…

Cho nên, chúng ta không lấy làm lạ là khi có nhà văn lớn tuyên bố rằng “Tôi sáng tác dưới ánh sáng của chúa” (Lep Tônxtôi), tức có nghĩa là văn học nghệ thuật gắn liền với tôn giáo.

– Mối quan hệ giữa tôn giáo với văn nghệ còn thể hiện trong các lễ tiết, nghi thức tôn giáo với âm nhạc, vũ điệu. Những bài thánh ca ở giáo đường Thiên chúa giáo, Tin lành giáo; những điệu hát chầu văn, điệu múa lên đồng của cô, cậu nơi phủ thờ Mẫu tại Việt Nam; những giai điệu trống kèn, tang, nhịp trong xướng tụng; những động tác múa tay bắt ấn quyết của các nhà sư khi hành lễ, đặc biệt là ở lễ cúng thí thực cô hồn đã chứng tỏ giữa tôn giáo và văn học nghệ thuật có mối quan hệ tương hỗ nhau.

Về mặt biểu tượng tôn giáo thể hiện ở không gian thiêng liêng biểu lộ niềm tin của con người qua các kiến trúc đền, chùa, miếu, điện, phủ, thánh đường của mỗi tôn giáo mỗi khác với sự bài trí có khác nhau. Các kiểu kiến trúc đó phần nào thể hiện đặc trưng của tôn giáo. Đây là một trong những biểu hiện của mối quan hệ giữa tôn giáo với loại hình nghệ thuật.

c. Đi vào chiều sâu của mối quan hệ giữa tôn giáo và văn học nghệ thuật, có thể nói rằng:



– Tôn giáo là một phương diện của đời sống, đồng thời là phương tiện trong đời sống của con người. Tôn giáo cũng như văn học nghệ thuật đều là sự thể hiện của năng lực con người. Con người xuất phát từ niềm tin thiêng liêng với sự kính tin, tín ngưỡng nên mới có tôn giáo (religion). Và tôn giáo hiện diện, tồn tại là do con người sáng lập ra và vì con người. Cho dù sau đó bậc giáo chủ sáng lập được người đời xưng tụng là đấng tối cao.

– Tôn giáo vừa là thuốc phiện như Các Mác đã nói, nhưng đồng thời theo tôi nghĩ, tôn giáo cũng vừa là sự nâng đỡ, sự cần thiết đem lại bình yên cho cuộc sống con người.

Tìm hiểu bất kỳ tôn giáo nào cần phải hiểu thông qua hai trạng thái. Một là, nếu tôn giáo là niềm tin thiêng liêng của con người và niềm tin ấy sẽ đưa đến sự say mê kính ngưỡng để dẫn đến cái gọi là “tử vì đạo”. Lúc này, con người bị tôn giáo ru ngủ mê hoặc, tin vào những hoang đường kỳ bí, tin vào hạnh phúc ở cõi vĩnh hằng xa xăm, xa rời thực tế cuộc sống thì có lẽ đó là thứ tôn giáo mê hoặc, mỵ dân, là liều thuốc phiện như Mác đã nói.

Hai là, nếu xem tôn giáo như là một nhu cầu tinh thần của con người và tìm hiểu, nghiên cứu tôn giáo xuất phát từ cơ sở tâm lý xã hội thì tôn giáo là sự nâng đỡ, hỗ trợ, là sự cần thiết cho con người. Con người ta ai cũng có nhu cầu phải giãi toả tâm linh, giải phóng tâm trí thoát khỏi phiền muộn, lo âu. Muốn thế, con người phải tìm đến tôn giáo như là tìm về nguồn cội. Nhờ tôn giáo mà con người cảm thấy mình có sự cân bằng. Như vậy, tôn giáo đem lại sự quân bình cho đời sống con người: đời sống tâm lý, cuộc sống đời thường, kể cả đời sống tâm linh. Đó là sự cần thiết của tôn giáo.

– Tôn giáo ra đời gắn với bản chất của sự sống. Là con người ai cũng muốn và đã sống thì phải có ham muốn. Con người với thuộc tính người nên có nhiều ham muốn, nhiều khát vọng. Không có ham muốn chắc sẽ không có sự sống và sẽ không có con người. Cho nên, có thể nói ham muốn là bản chất của sự sống. Giữa ham muốn, khát vọng và đạt đến cái đích của sự khát vọng là một khoảng cách xa vời.

Bản chất khách quan của khát vọng bao giờ cũng ở tầm cao, vượt lên trên, con người ta chỉ biết phấn đấu vươn tới chứ khó lòng đạt đến. Còn ham muốn, còn khát vọng thì tôn giáo còn tồn tại, vì nó là mảnh đất để nảy sinh, phát triển. Khát vọng và ham muốn của con người là vô tận nên đã dẫn đến niềm tin thiêng liêng. Con người tin có hạnh phúc ở cõi hư vô, Niết bàn, thiên đường, nước Chúa, đất Thánh, tin cuộc sống ở kiếp khác…

– Tôn giáo là cội nguồn nâng đỡ sức sáng tạo của văn học nghệ thuật. Con người ta trước khi tìm đến với tôn giáo, trở thành con người của tôn giáo thì họ đã là những con người trần thế cũng như trước khi trở thành Nho sĩ, Đạo sĩ, Thiền sư, Sa môn thì họ là con người phàm tục, nói tiếng nói của con người phàm tục, nghĩ cái suy nghĩ con người trần thế.

Trong văn học nghệ thuật cũng vậy, trước khi trở thành nhà nghệ sĩ sáng tạo các công trình văn nghệ thì họ là những con người đời thường, con người thế tục. Và đã là người tất phải có nhu cầu, ham muốn, khát vọng. Con người ta ai cũng có nhu cầu tâm linh, có khát vọng vươn tới cuộc sống tốt đẹp khác với cuộc sống trần thế đầy phiền muộn, lo âu, vất vả nên người ta mới có niềm tin thiêng liêng ở tôn giáo, mới tìm đến tôn giáo để thoả mãn nhu cầu tâm linh, để giãi toả tâm lý, để tìm sự quân bình trong tâm tính. Con người ta tìm đến với văn học nghệ thuật cũng không ngoài mục đích ấy. Tìm đến và sống với đời sống văn chương cũng là cách đi tìm sự yên vui thanh thản của lòng mình.

– Trên góc độ sáng tạo nghệ thuật thì tôn giáo là mảnh đất tốt, là nguồn càm hứng dạt dào và vô tận để sáng tạo nghệ thuật. Nghiên cứu ảnh hưởng của tôn giáo đối với văn học nghệ thuật là tìm đến những bến bờ mới sinh động, mênh mông vô tận của dòng cảm hứng sáng tạo. Tôn giáo tồn tại song song với văn học và chính nó là mảnh đất gợi cảm hứng cho văn học. Một thực tế hiển nhiên là Tam tạng kinh điển của Phật giáo, kinh thánh Tân ước, Cựu ước của Thiên chúa giáo, kinh Coran của Hồi giáo, Đạo đức kinh của Lão Tử, Nam hoa kinh của Trang Tử lại giàu hình tượng văn học, đầy chất thơ, đậm tính văn chương. Ở đó, chúng ta có thể tìm thấy một nguồn vô tận của mỹ từ pháp. Thực tế đó đã biểu lộ khả năng giao thoa giữa tư tưởng tôn giáo với sáng tạo văn học.

– Nhìn chung, nếu nhân loại có bao nhiêu phương diện của sự sống thì đều có bấy nhiêu khả năng trở thành mảnh đất của sáng tạo văn chương, sáng tạo nghệ thuật. Những phương diện như tôn giáo, chính trị, đạo đức, tình yêu… là những phương diện của sự sống thì tất cả đều trở thành ngọn nguồn gợi cảm hứng cho sáng tạo văn chương.
 
Khóa học Quản trị dòng tiền

Xem nhiều

Webketoan Zalo OA