Viết trên cùng 1 hóa đơn cũng được. Với điều kiện cùng thuế suất.
Tại sao anh Hải lại có khái niệm NCC hàng hoá và nhà cung cấp dịch vụ. (Cái này tự mình làm khổ cho chính sản phẩm của mình đó anh Hải à)
Xin đóng góp 1 vài ý nhe :
Đã làm 1 phần mềm, việc phân loại khách hàng/nhà cung cấp có thể phân loại đối tượng như sau :
+ Nhà cung cấp (331) hoặc khách hàng (131) nước ngoài
+ Nhà cung cấp (331) hoặc khách hàng (131) trong nước
hoặc có khi nhà cung cấp cũng có thể là người mua.
Do vậy, việc quản lý công nợ, anh Hải có thể khai báo thêm trong phân hệ công nợ các tài khoản cần sử dụng để người dùng có thể chọn :
Ví dụ : Công Ty ABC là người mua của Cty "mình"và cũng là nhà cung cấp hàng hòa, dịch vụ cho Cty "mình".
Trong phần khai báo, các TK công nợ anh chỉ check vào các TK công nợ 131, 331 ---> Công Ty ABC (Giả sử Cty ABC này có mã công nơ 123456)
Mở rộng ra thêm, có thể chọn thêm các TK công nợ như sau :
131, 331, 3387(Doanh thu chưa thực hiện),342 (Nợ dài hạn),.
Và khi cần truy xuất mã công nợ 123456 - Cty ABC thì nò sẽ liệt kê tất cả các TK liên quan đến mã này. Sẽ không sót công nợ của Cty ABC nếu có ở nhiều Tài khoản khác nhau
Không rõ vấn đề này, có thuyết phục anh Hải nhà mình chưa nhỉ.
Tiếc là tôi không thể minh họa bằng ảnh lên cho anh Hải cùng các bạn xem.
Vì chỉ cho phép tải lên các file dưới dạng doc, xls, pdf,ppt
Nếu cần xin trao đổi tiếp nhe.
Do vậy, việc quản lý công nợ, anh Hải có thể khai báo thêm trong phân hệ công nợ các tài khoản cần sử dụng để người dùng có thể chọn :
Đọc câu này tôi đoán bạn hiểu sai ý của tôi
---------------------------------------------------------------------
Xin bạn chỉ cho tôi cách nhập trên 1 chứng từ (chứ ko phải nhập trên 1 màn hình) cho 1 nghiệp vụ như sau:
Cty A Mua hàng hóa từ nước ngoài về từ nhà cung cấp X, bao gồm các khoản sau:
1. Hàng hóa: 3 hàng hóa (nhập mua từ Công ty X bên nước ngoài)
2. Khi nhập hàng, theo điều kiên mua bán
(Mọi người xem lại khái niệm về mua bán XNK với Incoterm để biết điều kiện nào thì bên mua chịu và điều kiện nào thì bên bán chịu, và bên nào chịu tới đâu, những điều kiện đó là chuẩn quốc tế và được ghi rõ trong hợp đồng, ở đây mình đang ví dụ là bên mua chịu tất cả chi phí) thì Cty A chịu các loại phí như sau:
a. Phí bảo hiểm hàng hóa (Do hãng tàu
X nhận làm bảo hiểm)
b. Phí lưu kho tai cảng Hải Phòng (Phí này phải thanh toán cho ĐƠN VỊ
Y)
c. Phí vận chuyển từ kho tại Cảng về tới kho của Cty A tại HN (Phí này do Cty
Z thực hiện)
d. Phí cầu đường (trả cho Đơn vị
W nào đó)
e, f, g, h, v.v... các phí XYZ gì đó nữa. (Theo
logic thì có thể phần mềm chấp nhận 1triệu loại chi phí như trên liên quan tới vấn đề nhập hàng chứ ko chỉ dăm ba cái chi phí vận chuyển, kho bãi, bảo hiểm,.... đâu. Dĩ nhiên, theo thực tế thì chắc ko có quá 5 loại chi phí)
Cứ cho là ko cần phân biệt NCC hàng hóa hay dịch vụ đi, nhưng xin hỏi bạn:
1. TRÊN 1 CHỨNG TỪ THÌ NHẬP THẾ NÀO ĐỐI VỚI CÁC KHOẢN NÓI TRÊN?
2. QUẢN LÝ CÔNG NỢ VỚI CÁC CTY X, CTY Y, CTY Z, CTY W, CTY n (n = 1 ... 1000) nói trên? (Nhớ nhé, người ta thanh toán chi phí cho hoá đơn dịch vụ của người ta chứ ko thanh toán hoá đơn dịch vụ cho cái hoá đơn mua hàng đó đâu)
4. PHÂN BỔ CÁC KHOẢN CHI PHÍ NÓI TRÊN CHO CÁC MẶT HÀNG NHẬP VỀ? THẬM CHÍ MỖI KHOẢN CHI PHÍ NÓI TRÊN CÓ THỂ PHÂN BỔ THEO CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁC NHAU THÌ LÀM THẾ NÀO?
3. THEO DÕI LIÊN KẾT GIỮA CÁC CHỨNG TỪ NÀY VỚI NHAU?
P/S: Mấy cái tài khoản chỉ để làm cảnh thôi, ko có giá trị gì hết, đối với phần mềm xịn thì ko phụ thuộc vào TK mà phụ thuộc vào bản chất nghiệp vụ để xác định luồng thông tin như thế nào, từ đó sẽ đưa ra thiết kế và định nghĩa liên quan tới từng loại chứng từ.
Hiện nay tôi thấy bản .NET 2010 mới của Misa đã tách các chứng từ dạng chi phí (chứng từ dịch vụ) ra và dùng phân bổ chứng từ vào chứng từ chứ ko phải là làm kiểu thêm mấy ô chi phí như các phần mềm khác. Đó cũng là 1 sự tiến bộ lớn so với bản 7.9 cũ.
Tóm lại: TẤT CẢ CÁC KHOẢN TIỀN GIAO DỊCH VỚI 1 ĐỐI TƯỢNG KINH DOANH ĐỀU ĐƯỢC THỂ HIỆN BẰNG 1 LOẠI CHỨNG TỪ (VÀ KO CÓ CHUYỆN TRÊN 1 CHỨNG TỪ LẠI KIÊN QUAN TỚI > 2 ĐỐI TƯỢNG KINH DOANH (TRỪ ĐỐI TƯỢNG NHÂN VIÊN CÓ THỂ CÓ MẶT TRÊN MỌI CHỨNG TỪ)). CÁC CHỨNG TỪ THÌ CÓ QUAN HỆ LẪN NHAU (KỂ CẢ CÙNG LOẠI LẪN KHÁC LOẠI)
Không bao giờ có khái niệm
trên 1 chứng từ vừa thể hiện mua cái này của Cty X, mua cái kia của công ty Y được ("cái này" ở đây có thể là hàng hóa hoặc dịch vụ). Cũng như đừng có thiết kế kiểu 1 phiếu thu, thu tiền từ nhiều KH (mà phải có khái niệm bảng kê, liên kết với phiếu thu), cũng như 1 phiếu chi tiền thanh toán tạm ứng công tác cho bảng kê các dịch vụ với các nhà cung cấp khác nhau: tiền KS, tiền đi lại của nhiều hãng xe, tiền công tác phí,....)
VÀ Đó là quy tắc thiết kế CSDL rồi bạn ạ! 1 HỆ THỐNG KINH DOANH CƠ BẢN CÓ 2 LOẠI DỮ LIỆU
CĂN BẢN SAU:
1. ĐỐI TƯỢNG:
a. Đối tượng kinh doanh: Khách hàng, NCC, Nhân viên, ....
b. Đối tượng kho: Hàng hóa, NVL, TSCĐ,
c. Đối tượng khác: Cty, chi nhánh, kho bãi, tài khoản, v.v...
2. GIAO DỊCH (CHỨNG TỪ): Đơn hàng, Hóa đơn mua bán, Phiếu nhập Xuất, Phiếu Thu chi, v.v....
Các quan hệ liên quan:
1. Quan hệ ĐỐI TƯỢNG với ĐỐI TƯỢNG (Ví dụ: Hàng hóa với NCC)
2. Quan hệ ĐỐI TƯỢNG với CHỨNG TỪ (Ví dụ: Phiếu nhập với NCC và với Nhân viên).
(Liên quan tới topic này thì khẳng định: KHÔNG CÓ CHUYỆN 1 chứng từ liên quan tới cùng lúc 2 cá thể của cùng 1 đối tượng kinh doanh, kiểu như 1 phiếu nhập hàng lại vừa thể hiện mua hàng của Cty A, mua dịch vụ của công ty B trên cùng 1 chứng từ, mà đó là 2 chứng từ độc lập, có quan hệ lẫn nhau) 3. Quan hệ CHỨNG TỪ với CHỨNG TỪ (Ví dụ: Đơn hàng --> Hóa đơn mua --> Phiếu nhập --> Phiếu Chi (hay UNC), v.v...)