Báo Nhân Dân- Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTÐB) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 14-11-2008, đã được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 28-11-2008. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1-4-2009.
Riêng các quy định đối với mặt hàng rượu và bia có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2010.
Luật này bãi bỏ các quy định tại Luật Thuế TTÐB số 05/1998/QH10; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TTÐB số 08/2003/QH11; Ðiều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TTÐB và Luật Thuế giá trị gia tăng số 57/2005/QH11, trừ các quy định đối với mặt hàng rượu và bia tiếp tục có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31-12-2009.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu, thu vào một số hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước cần điều tiết thu nhập và hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng.
Luật Thuế TTÐB hiện hành được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 20-5-1998, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-10-1999 và đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2003 và 2005.
Tổng kết việc thực hiện Luật Thuế TTÐB năm 1998 và các Luật sửa đổi, bổ sung năm 2003 và 2005 cho thấy Luật Thuế TTÐB đã đạt được mục tiêu đặt ra khi ban hành luật là góp phần để hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng của xã hội theo định hướng của Nhà nước, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lý, và tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh đối với một số hàng hóa và dịch vụ, đồng thời đáp ứng yêu cầu phục vụ cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần bảo đảm nguồn thu ổn định cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong giai đoạn tới, Luật Thuế TTÐB năm 1998 và các Luật sửa đổi, bổ sung sau đó đã bộc lộ một số hạn chế cần được bổ sung và sửa đổi cho phù hợp.
Chẳng hạn, về đối tượng chịu thuế: Quy định hiện hành chưa bao quát hết các trường hợp thuộc diện cần điều tiết bằng thuế TTÐB (xe mô-tô trên 125 phân khối, tàu bay, du thuyền loại không dùng cho mục đích kinh doanh).
Về thuế suất, quy định của Luật Thuế TTÐB hiện hành sau một thời gian thực hiện đã bộc lộ một số điểm không phù hợp.
Thuế suất áp dụng đối với ô-tô chở người được phân biệt theo số chỗ ngồi, trong đó xe từ sáu chỗ đến chín chỗ ngồi có mức thuế suất thấp hơn nhiều so với xe từ năm chỗ ngồi trở xuống mặc dù xe từ chín chỗ ngồi trở xuống cũng được sử dụng chủ yếu cho mục đích tiêu dùng cá nhân...
Ngoài ra, Luật Thuế TTÐB cũng cần được sửa đổi để thực hiện các cam kết về thuế mà nước ta đã đưa ra trong quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới như cam kết về áp dụng thống nhất một mức thuế suất đối với tất cả các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở lên; cam kết về áp dụng thuế suất chung đối với các loại bia, không phân biệt hình thức đóng gói bao bì.
Luật Thuế TTÐB hiện hành quy định cả về nội dung chính sách và về quản lý thuế. Luật Quản lý thuế (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2007) đã quy định các nội dung về quản lý thuế bao gồm đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế, xử lý vi phạm, khen thưởng để thay thế cho các quy định về quản lý của các luật thuế hiện hành.
Vì vậy, về phạm vi điều chỉnh, Luật Thuế TTÐB số 27/2008/QH12 (Luật sửa đổi) chỉ quy định các nội dung về chính sách thuế. Luật Thuế TTÐB (sửa đổi) gồm bốn chương, 11 điều.
Ðiểm mới thứ nhất của Luật Thuế TTÐB là đối tượng chịu thuế (Ðiều 2).
Theo đó, bổ sung ô-tô dưới 24 chỗ ngồi vừa chở người vừa chở hàng vào đối tượng chịu thuế TTÐB, đồng thời quy định cụ thể tiêu chí đối với loại xe này; Bổ sung xe mô-tô có dung tích xi-lanh trên 125 phân khối vào đối tượng chịu thuế TTÐB; Bổ sung tàu bay và du thuyền (trừ tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách, khách du lịch) vào đối tượng chịu thuế TTÐB.
Ðiểm mới thứ hai là về đối tượng không chịu thuế (Ðiều 3).
Luật (sửa đổi) kế thừa các quy định của pháp luật về thuế TTÐB trước đây, đồng thời quy định bổ sung một số trường hợp cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Cụ thể là: Tàu bay và du thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách, khách du lịch không thuộc diện chịu thuế TTÐB.
Các loại xe ô-tô dưới 24 chỗ ngồi nhưng được sử dụng cho mục đích chuyên dùng như: xe cứu thương, xe chở phạm nhân, xe tang lễ; xe ô-tô thiết kế vừa có chỗ ngồi, vừa có chỗ đứng chở được từ 24 người trở lên (xe buýt nội thành và liên tỉnh, xe buýt vận chuyển khách trong sân bay, nhà ga) không chịu thuế TTÐB. Hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan, hàng hóa từ nội địa bán vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan, hàng hóa được mua bán giữa các khu phi thuế quan với nhau không chịu thuế TTÐB (trừ xe ô-tô chở người dưới 24 chỗ ngồi).
Ðiểm mới thứ ba là về thuế suất thuế TTÐB (Ðiều 7).
Ðối với mặt hàng rượu, để thực hiện cam kết khi gia nhập WTO và bảo đảm phù hợp thực tiễn cũng như mối quan hệ với đồ uống có cồn khác, Luật Thuế TTÐB quy định: Mặt hàng rượu từ 20 độ trở xuống có mức thuế suất là 25% (hiện hành là 20%); Rượu từ 20 độ trở lên, áp dụng thuế suất theo lộ trình: Từ năm 2010 đến hết năm 2012: Áp dụng thuế suất 45%; Từ năm 2013 trở đi: Áp dụng thuế suất 50%. Ðối với mặt hàng rượu thuốc, rượu hoa quả áp dụng thuế suất theo độ cồn như các loại rượu khác để bảo đảm sự minh bạch của chính sách và chống gian lận trong thực hiện.
Ðối với mặt hàng bia: Áp dụng mức thuế suất thống nhất với mọi loại bia, không phân biệt hình thức đóng gói, bao bì và có lộ trình thực hiện tương tự như mặt hàng rượu.
Cụ thể là: Từ năm 2010 đến hết năm 2012: áp dụng thuế suất 45%; Từ năm 2013 trở đi: Áp dụng thuế suất 50%.
Ðối với xe ô-tô từ chín chỗ ngồi trở xuống, quy định mức thuế suất phân biệt theo dung tích xi-lanh với nguyên tắc dung tích xi-lanh lớn hơn sẽ phải chịu mức thuế suất cao hơn, cụ thể là: Dung tích từ 2.000 cc trở xuống: 45%; Dung tích trên 2.000 cc đến 3.000 cc: 50%; Dung tích trên 3.000 cc: 60%.
Ðối với loại xe từ 10 chỗ đến dưới 16 chỗ ngồi, giữ nguyên mức thuế suất hiện hành là 30%, xe từ 16 chỗ đến dưới 24 chỗ ngồi: giữ nguyên mức thuế suất hiện hành là 15%, xe ô-tô thiết kế vừa chở người vừa chở hàng, quy định thêm một dòng riêng trong biểu thuế TTÐB với mức thuế suất 15%.
Ðối với loại xe ô-tô sử dụng nhiên liệu hỗn hợp (xăng kết hợp với điện, năng lượng sinh học), bổ sung thêm một dòng riêng trong biểu thuế TTÐB với mức thuế suất bằng 70% mức thuế suất áp dụng đối với ô-tô cùng loại; loại xe ô-tô chạy hoàn toàn bằng năng lượng sinh học, bổ sung thêm một dòng riêng trong biểu thuế TTÐB với mức thuế suất bằng 50% mức thuế suất áp dụng đối với ô-tô cùng loại.
Ðối với loại xe ô-tô chạy bằng điện, quy định mức thuế suất cụ thể là: Loại từ 9 chỗ ngồi trở xuống: mức thuế suất là 25%; Loại chở người từ 10 đến dưới 16 chỗ ngồi: mức thuế suất là 15%; Loại chở người từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi: mức thuế suất là 10%; Xe thiết kế vừa chở người vừa chở hàng (có từ hai hàng ghế trở lên): 10%.
Ðối với xe mô-tô có dung tích xi-lanh hơn 125 phân khối, mức thuế suất là 20%. Ðối với tàu bay và du thuyền, mức thuế suất là 30%.
Ðối với kinh doanh vũ trường, điều chỉnh tăng mức thuế suất từ 30% lên 40%, mát-xa, ka-ra-ô-kê giữ nguyên mức thuế suất hiện hành.
Dịch vụ casino, trò chơi điện tử có thưởng, kinh doanh đặt cược: Ðiều chỉnh mức thuế suất từ 25% lên 30%, kinh doanh gôn: Ðiều chỉnh mức thuế suất từ 10% lên 20%.
Ðiểm mới thứ tư là về giá tính thuế (Ðiều 6). Theo quy định của luật thì giá tính thuế đối với hàng hóa sản xuất trong nước là giá do cơ sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt; đối với hàng hóa nhập khẩu là giá tính thuế nhập khẩu cộng thuế nhập khẩu.
Giá tính thuế đối với mặt hàng bia lon hiện hành được trừ giá trị vỏ lon.
Ðể thực hiện được mục tiêu hướng dẫn tiêu dùng đối với mặt hàng bia, đồng thời bảo đảm thực hiện cam kết khi gia nhập WTO áp dụng một mức thuế suất đối với mặt hàng bia, Luật (sửa đổi) quy định rõ giá tính thuế TTÐB là giá bán của cơ sở sản xuất, giá nhập khẩu chưa bao gồm thuế TTÐB.
Việc quy định giá tính thuế là giá do cơ sở sản xuất bán ra, vì vậy, giá tính thuế đối với bia lon, bia chai là giá bao gồm cả vỏ lon, vỏ chai.
Mặt khác, việc không trừ vỏ lon là phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm bình đẳng với các mặt hàng khác cũng có bao bì như rượu, thuốc lá.

