Vai trò kiểm toán nội bộ trong quản trị

  • Thread starter kinhcan007
  • Ngày gửi
kinhcan007

kinhcan007

Cao cấp
15/8/07
536
4
0
Ha noi
Thời gian gần đây, ở Việt Nam, kiểm toán nội bộ (KTNB) được nhắc đến nhiều như là một công cụ hoặc một chức năng quản trị DN. Trong khi chưa có quy định hoặc yêu cầu từ phía cơ quan chức năng, hiệp hội chuyên nghiệp về KTNB, thì nhiều DN đã bắt đầu xây dựng cho mình một cơ chế KTNB như là một phần của công tác hoạch định chiến lược kinh doanh và quản trị DN. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu các khái niệm và thảo luận dựa trên thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn ở Việt Nam để giúp các DN định hình và tổ chức bộ máy KTNB của mình như là một nhu cầu cấp thiết trong quá trình siết chặt công tác quản trị DN, đối phó với áp lực của thị trường trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động như hiện nay.

Vai trò và chức năng của KTNB

Trên thế giới, KTNB đã có lịch sử tồn tại và phát triển trên 60 năm và được thừa nhận ở trên 165 quốc gia như một nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp. Cùng với sự phát triển năng động và ngày một phức tạp của các nền kinh tế, vai trò và chức năng của KTNB trong việc đưa ra đảm bảo về việc đơn vị có thể kiểm soát một cách hữu hiệu rủi ro đã dần được công nhận trong tất cả các khu vực kinh tế công, kinh tế tư nhân và cả các tổ chức phi lợi nhuận.

Trong những năm đầu thập kỷ này, từ sự kiện sụp đổ của các tập đoàn lớn (Enron, WorldCom...) đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đều có mối liên hệ đến sự tồn tại và vận hành thực sự của một cơ chế quản trị DN trong một DN để có thể quản lý và kiểm soát được rủi ro. Các DN đều chịu một áp lực rất lớn trong việc nhận biết tất cả rủi ro mà DN đang phải đối mặt và phải lý giải được cách thức làm thế nào để kiểm soát các rủi ro này ở mức độ chấp nhận được. Cùng với sự phát triển của khung quản trị rủi ro DN, KTNB đang dần được xem là một công cụ hữu hiệu để một DN kiểm soát các rủi ro của mình thông qua cả chức năng đảm bảo và chức năng tư vấn cho ban giám đốc và cho các chủ sở hữu. Vai trò của KTNB chuyển dịch từ vai trò truyền thống trong hoạt động đánh giá công tác quản lý sang các hoạt động mang tính chất tư vấn và đưa ra các đảm bảo mang tính khách quan cho các cấp quản lý. KTNB tham gia trực tiếp vào chu trình quản trị DN, bao gồm chu trình hoạt động, thủ tục kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và cả báo cáo tài chính.

Trong rất nhiều công ty niêm yết và công ty đại chúng, KTNB hỗ trợ trực tiếp cho HĐQT và ủy ban kiểm toán trong vai trò giám sát chung các hoạt động của DN. Sự tham gia trực tiếp, với vai trò ngày càng quan trọng và mang tính độc lập của KTNB vào cơ chế quản trị DN được xem là một tất yếu cùng với sự phát triển của quản trị DN trong nền kinh tế hiện nay.

Học viện Kiểm toán viên nội bộ Hoa Kỳ (IIA) là một trong những tổ chức đi tiên phong và có uy tín nhất trên thế giới trong việc định hướng và đặt ra khuôn khổ hoạt động cho KTNB. IIA đưa ra các chuẩn mực quốc tế về kiểm toán nội bộ (CMKTNB) và liên tục cập nhật các chuẩn mực này như là một thông lệ tốt nhất về KTNB. Tất cả các kiểm toán viên nội bộ là thành viên của IIA bắt buộc phải tuân thủ các chuẩn mực và quy định về KTNB của IIA. Về vai trò của KTNB trong điều kiện thay đổi phức tạp của các nền kinh tế thị trường, đặc biệt là kinh tế Mỹ năm 2002, IIA nhấn mạnh: “KTNB, HĐQT, ban giám đốc và kiểm toán độc lập là nền tảng của một cơ chế quản trị DN hiệu quả hơn đang bắt buộc phải có ở các DN”. Các CMKTNB của IIA cũng đã và đang được sửa đổi để phản ánh vai trò của KTNB trong cuộc cải tổ quản trị DN, đặc biệt là thời kỳ sau Luật Sarbanes-Oxley và cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra.

Có thể minh họa sự thay đổi trọng tâm trong vai trò của KTNB theo định nghĩa của IIA qua các năm như sau:

►Định nghĩa năm 1947: “KTNB là hoạt động đánh giá độc lập trong một tổ chức về công tác kế toán, tài chính và các công tác khác của tổ chức đó. Hoạt động KTNB được xem như là các dịch vụ mang tính bảo vệ và xây dựng hỗ trợ cho ban giám đốc”

►Định nghĩa năm 1981: “KTNB là một chức năng đánh giá độc lập được thiết lập trong một tổ chức để đánh giá và kiểm tra các hoạt động kinh doanh của tổ chức đó. Hoạt động KTNB được xem là một dịch vụ hỗ trợ cho chính tổ chức đó”

►Định nghĩa năm 1999: “KTNB là hoạt động đưa ra sự đảm bảo và tư vấn mang tính độc lập và khách quan được thiết kế nhằm mang lại giá trị và tăng cường hoạt động của một tổ chức. KTNB trợ giúp một tổ chức đạt được các mục tiêu của mình thông qua phương pháp tiếp cận có hệ thống và có nguyên tắc để đánh giá và tăng cường tính hiệu quả của công tác quản trị rủi ro, của hệ thống kiểm soát nội bộ và của các chu.

Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù KTNB vẫn được đề cập như là một bộ phận của cơ chế quản lý tài chính cần được thiết lập trong một DN hoặc một tổng công ty (thường được đề cập như là một bộ phận của cơ chế quản lý tài chính cần được thiết lập trong một DN hoặc một tổng công ty (thường được đề cập trong điều lệ công ty), vẫn chưa có các quy định hoặc thông lệ về việc xây dựng và triển khai chức năng này. Rất nhiều DN ở Việt Nam hiện nay vẫn xem KTNB như một hoạt động hỗ trợ cho ban giám đốc theo như định nghĩa sơ khai của IIA; coi KTNB là một chức năng kiểm tra, kiểm soát nội bộ về công tác tài chính kế toán hoặc chỉ là một bộ phận “mở rộng” của phòng/ban tài chính kế toán. Chỉ một số ít đơn vị có sử dụng KTNB trong kiểm tra việc tuân thủ các quy định kiểm soát liên quan đến một số hoạt động (ví dụ như bán hàng, quảng cáo, marketing...). Tuy nhiên, trong các trường hợp này, KTNB vẫn thường trực thuộc một bộ phận quản lý nhất định, không có được tính độc lập khách quan và cũng chưa được xem là một mắt xích của quản trị DN. Để có thể thấy được “lỗ hổng” hoặc “khoảng cách” giữa những kỳ vọng về KTNB trong quản trị DN với thực trạng của KTNB trong các DN Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể đi sâu về vai trò của KTNB trong việc (i) đưa ra đảm bảo và (ii) đưa ra các tư vấn cho DN.

(i) KTNB với vai trò đưa ra đảm bảo

Các tổ chức và DN thường kỳ vọng KTNB sẽ cung cấp được các dịch vụ mang tính đảm bảo cho hệ thống nội bộ của mình. Trong nền kinh tế thị trường có mức độ cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các DN đều hướng tới nhiều mục tiêu cùng một lúc, bao trùng cả mảng quản trị, kinh tế, đạo đức kinh doanh, xã hội và môi trường... KTNB cần phải có đủ các kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để đưa ra được các đảm bảo cho DN về việc DN đã và đang vận hành một cách hiệu quả nhằm đạt được đồng thời các mục tiêu đã đề ra. Các đảm bảo do KTNB mang lại chủ yếu tập trung vào quản trị DN thông qua quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ các vấn đề về đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội (bao gồm cả vấn đề môi trường, vấn đề tuân thủ). Trong khi ban giám đốc và lãnh đạo DN chịu trách nhiệm thiết lập và duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ thì hoạt động KTNB đưa ra đảm bảo cho ban giám đốc và ủy ban kiểm toán (hoặc HĐQT) rằng, hệ thống kiểm soát nội bộ được vận hành một cách hiệu quả như được kỳ vọng. Để tránh xung đột về lợi ích và đảm bảo tính độc lập, KTNB thường chịu trách nhiệm trực tiếp trước HĐQT hoặc đại diện của HĐQT, như ủy ban kiểm toán.

Thực trạng ở nhiều DN Việt Nam hiện nay, do quy mô cũng như tính phụ thuộc của KTNB, DN cùng với các nhà đầu tư chưa thể có được sự đảm bảo cần thiết về tính hiệu quả của toàn bộ hệ thống kiểm soát rủi ro và việc tuân thủ các quy định trong và ngoài đơn vị. Nếu đơn vị có bộ phận KTNB thì cũng chỉ có thể giúp một bộ phận quản lý cụ thể nào đó có được một sự tin tưởng nhất định về việc vận hành của một số bước kiểm soát, chủ yếu là phê duyệt và tuân thủ về tài chính kế toán, ghi chép và hạch toán hoặc về việc sử dụng và quản lý một số tài sản nhất định. DN vẫn cần phải tiến một bước dài mới có được sự đảm bảo với quy mô và cấp độ lớn hơn từ KTNB trong các lĩnh vực có liên quan.

(ii) KTNB với vai trò tư vấn

Vai trò của KTNB trong việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ cùng với các bước kiểm soát rủi ro, các bước tuân thủ... bao trùm một phạm vi rất rộng vì tất cả các cấp của DN đều có tham gia vào các quy trình đề ra. Công việc của KTNB bao gồm việc đánh giá phương châm cũng như văn hóa quản lý rủi ro của một DN, đến việc xem xét và báo cáo tính hiệu quả của việc thực hiện các chính sách quản lý. Dựa trên các công việc đó, KTNB được kỳ vọng sẽ đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện các bộ phận có cơ hội phát triển hoặc có những khiếm khuyết cần khắc phục. Thêm vào đó, KTNB có thể cung cấp các dịch vụ tư vấn trợ giúp một cách riêng biệt cho tất cả các cấp trong một đơn vị, từ HĐQT đến các nhân viên và các cấp quản lý trong việc thực hiện trách nhiệm của mình một cách hiệu quả. Một số ví dụ cụ thể về vai trò tư vấn của KTNB như sau:

-Chức năng tư vấn cho HĐQT và ủy ban kiểm toán cũng như tư vấn cho ban giám đốc: KTNB cần có kỹ năng và kiến thức cũng như kinh nghiệm cần thiết để có thể tư vấn cho các cấp này của DN trong việc giám sát chung về báo cáo tài chính, kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro, đạo đức DN... KTNB cũng có thể tư vấn sâu hơn về việc quản lý tài sản, các yêu cầu tuân thủ... Để tránh xung đột về lợi ích và đảm bảo tính độc lập thì KTNB sẽ không được trao chức năng tư vấn. KTNB cũng sẽ không thay mặt ban giám đốc đưa ra các quyết định kinh doanh.

-Chức năng đào tạo: KTNB với kiến thức chuyên môn và kỹ năng của mình có thể tham gia công tác đào tạo cho các bộ phận và phòng, ban trong DN về các mảng liên quan đến công nghệ thông tin trong quản lý, thủ tục kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro, báo cáo tài chính, các quy định tuân thủ... Thông quan các hỗ trợ đào tạo này, KTNB sẽ góp phần tăng cường năng lực của nhân sự trong một DN và giúp các vị trí thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả hơn.

Việc tư vấn của KTNB trong nhiều DN Việt Nam hiện nay (nếu có) thường chỉ dừng lại ở các khuyến nghị xuất phát từ kết quả của công tác kiểm tra, kiểm soát cụ thể. Rất hãn hữu chức năng tư vấn riêng biệt của KTNB (gồm cả đào tạo) được sử dụng một cách chính thức, KTNB chưa thể “bán” được các dịch vụ tư vấn của mình trong nội bộ một DN. Tính độc lập giữa vai trò tư vấn và kiểm toán cũng chưa được đặt thành vấn đề với chức năng KTNB.
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
kinhcan007

kinhcan007

Cao cấp
15/8/07
536
4
0
Ha noi
Cơ cấu tổ chức KTNB trong DN

Việc tổ chức kiểm toán nội bộ (KTNB) trong DN phụ thuộc nhiều vào phạm vi mà DN kỳ vọng vào KTNB. Trong khi các quy định của Hoa Kỳ yêu cầu công ty niêm yết phải thiết lập bộ phận KTNB báo cáo thẳng cho ủy ban kiểm toán thuộc HĐQT thì các công ty khác thường coi đây là thông lệ tốt trong quản trị DN để có thể có KTNB mang tính hiệu quả nhất, mang lại giá trị gia tăng và tư vấn cho DN. Theo các chuẩn mực quốc tế về kiểm toán nội bộ (CMKTNB) của Học viện Kiểm toán viên nội bộ Hoa Kỳ (IIA) thì tổ chức KTNB trong DN sẽ được xem xét đến các khía cạnh chính sau:
Ông Hoàng Đức Hùng

(i) Ủy ban Kiểm toán: Một trong những thước đo về tính hiệu quả của quản trị DN trong một tổ chức chính là đóng góp của KTNB trong việc trợ giúp trực tiếp HĐQT, với đại diện là ủy ban kiểm toán trong việc quản lý các chu trình quản trị. Ủy ban kiểm toán sẽ đảm bảo KTNB có được nguồn lực, phạm vi và quyền hạn cần thiết để triển khai công việc có liên quan đến quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ và quản trị DN. CMKTNB của IIA quy định cụ thể mối quan hệ hỗ trợ và báo cáo giữa ủy ban kiểm toán và KTNB thông qua người phụ trách KTNB (Chief Audit Executive - CAE) và các kênh báo cáo. Ủy ban kiểm toán tham gia và chịu trách nhiệm bổ nhiệm CAE, phê duyệt điều lệ và kế hoạch kiểm toán, đảm bảo tính độc lập của KTNB, nhận báo cáo trực tiếp từ KTNB…



(ii) Trách nhiệm của CAE: Việc bổ nhiệm CAE cũng như lương, thưởng của vị trí này thông thường thuộc trách nhiệm trực tiếp của HĐQT/ủy ban kiểm toán. Vị trí CAE sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện và điều hành kế hoạch kiểm toán cũng như tuân thủ điều lệ kiểm toán được phê duyệt. CAE chịu trách nhiệm về mặt hành chính trước tổng giám đốc điều hành (CEO) và về mặt chức năng hoạt động trước ủy ban kiểm toán.

(iii) Điều lệ kiểm toán (Audit Charter): Điều lệ kiểm toán đưa ra khung hoạt động cho KTNB trong DN. Mục đích, quyền hạn và trách nhiệm của KTNB và CAE như là một mắt xích trong quản trị DN cần được cụ thể hóa. Vai trò của KTNB trong việc đưa ra các dịch vụ đảm bảo và tư vấn cũng như quyền truy cập thông tin và nhân sự cũng được cụ thể hóa trong điều lệ được HĐQT và ủy ban kiểm toán thông qua.

Ở các DN Việt Nam, KTNB thường được quy định như một phần trong quy chế quản lý tài chính - thiên về chức năng hỗ trợ tài chính kế toán. CAE thường giới hạn trong trách nhiệm báo cáo với ban giám đốc hoặc người phụ trách tài chính (CFO). Trong mô hình công ty cổ phần có tồn tại ban kiểm soát có một số chức năng tương tự như ủy ban kiểm toán, tuy nhiên quan hệ với KTNB không được rõ ràng như theo thông lệ ở trên. Một số chức năng của ban kiểm soát cũng có những khác biệt đáng kể với ủy ban kiểm toán. DN có thể tham khảo thêm các chuẩn mực có liên quan của IIA trong việc xác định cho mình một cơ cấu tổ chức KTNB phù hợp.

Triển khai KTNB trong DN

Dựa trên các chức năng được kỳ vọng của KTNB cũng như dựa vào thông lệ thế giới, chúng tôi giới thiệu ba hợp phần cơ bản trong việc xây dựng một bộ máy KTNB.

(i) Hợp phần quản trị: Mục đích, quyền hạn, trọng tâm và phạm vi của KTNB được xây dựng dựa trên những kỳ vọng của ủy ban kiểm toán (hoặc HĐQT), ban giám đốc điều hành DN cũng như các bên có liên quan khác. Thông thường, hợp phần này được cụ thể hóa trong điều lệ kiểm toán hoặc các văn bản tương đương, thậm chí qua các yêu cầu luật định (ví dụ, các quy định của TTCK…)

(ii) Hợp phần nhân lực: Được tập trung vào cơ cấu nhân sự và các bước phát triển nguồn lực hướng tới việc có được lực lượng KTNB với kinh nghiệm và kỹ năng phù hợp mang tính ổn định về mặt dài hạn. Kỹ năng của lực lượng KTNB sẽ phải bao trùm các loại hình rủi ro mà DN đang đối mặt như rủi ro công nghệ, rủi ro thuế, rủi ro hoạt động, rủi ro gian lận… Một lưu ý là nhiều khi các kỹ năng đặc biệt chỉ có nhu cầu trong một giai đoạn nhất định, cùng với nhu cầu duy trì một lực lượng KTNB ở một mức độ vừa phải sẽ làm phát sinh việc hợp tác hoặc thuê ngoài chuyên gia độc lập hoặc đơn vị cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp.

(iii) Hợp phần hạ tầng hỗ trợ: Hợp phần này tập trung vào việc có được các phương pháp luận, kỹ thuật kiểm toán, công nghệ hỗ trợ, dữ liệu thông tin và kể cả chương trình quản lý chất lượng nhằm hỗ trợ hoạt động kiểm toán và đảm bảo việc KTNB đạt được mục tiêu và thực thi được các quyền được trao, tạo ra khuôn khổ cho việc điều hành và triển khai các dịch vụ KTNB trong nội bộ DN. Hợp phần này đòi hỏi phải có sự chia sẻ thông tin và hợp tác giữa các bộ phận và các cấp trong DN dựa trên sự hiểu biết và công nhận vai trò và chức năng của KTNB trong quản trị DN.
 
Sửa lần cuối:
kinhcan007

kinhcan007

Cao cấp
15/8/07
536
4
0
Ha noi
Áp dụng bài học KTNB cho các DNVN-Một số gợi ý

Dựa trên các thảo luận ở hai phần trước về kiểm toán nội bộ (KTNB) và một số khảo sát về thực trạng KTNB ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy trở ngại chính cho DN Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển KTNB là những vấn đề liên quan đến các mảng sau:


- Nhân lực cho KTNB: do KTNB với vai trò mắt xích trong quản trị DN vẫn còn là một khái niệm tương đối mới, không phải DN nào cũng có thể xây dựng cho mình một đội ngũ chuyên viên có kinh nghiệm và kỹ năng cần thiết, kể cả vị trí phụ trách KTNB (CAE). DN sẽ trông đợi sự trợ giúp hiệu quả từ các công ty chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ KTNB, trong khi tiếp tục phát triển nguồn nhân lực của riêng mình. Việc tạo điều kiện cho nhân viên có được bằng cấp chuyên môn cùng với việc chuyển giao kiến thức từ công ty cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp sẽ là một điểm cần lưu ý trong việc phát triển nguồn nhân lực cho KTNB.

- Nhận thức về KTNB: các chức năng và vai trò của KTNB cũng như kênh báo cáo, quyền hạn và trách nhiệm của KTNB cần phải được chia sẻ và đồng tình của các bên có liên quan cũng như các cấp quản lý. Đặc biệt là việc giải quyết xung đột lợi ích của ban giám đốc liên quan đến chức năng kiểm soát của KTNB. Thường thì ban giám đốc sẽ có ý kiến không tán đồng về quyền hạn cũng như chức năng KTNB nếu họ thấy không có quyền kiểm soát trực tiếp bộ phận này.

- Kế hoạch đầu tư: việc đầu tư vào xây dựng (nhân sự, tuyển dụng, cơ sở vật chất…) và đào tạo KTNB cần được xem xét. Lợi ích của việc tăng cường quản trị DN, bao gồm cả quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ… sẽ phải được cân nhắc với chi phí đầu tư và duy trì bộ máy KTNB.

- Các thông lệ và chuẩn mực: trong khi Việt Nam chưa có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể thì việc tham khảo thông lệ tốt trên thế giới hoặc đầu tư xây dựng quy chế KTNB của riêng mình qua các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp sẽ được cân nhắc. Kỳ vọng của chủ sở hữu (hoặc cổ đông lớn) và ban giám đốc điều hành phải được xem xét đến khi lựa chọn hoặc đưa ra khung hoạt động của KTNB tại một DN.

- Quản lý và giám sát chất lượng: hiện tại, đây vẫn là hạn chế cho DN Việt Nam khi muốn đầu tư vào KTNB. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để HĐQT và ban giám đốc điều hành DN sẽ đánh giá được và đảm bảo chất lượng của bộ máy KTNB của mình? Chuẩn mực của IIA yêu cầu phải có đánh giá độc lập bên ngoài sau mỗi 5 năm về việc KTNB đã thực sự mang lại giá trị cho DN thông qua các hoạt động đánh giá và hoàn thiện tính hiệu quả của quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ và các chu trình quản trị. Trên khía cạnh chuyên môn, chúng tôi đưa ra một số gợi ý sau cho các DN Việt Nam trong việc xây dựng và triển khai chức năng KTNB của mình:

(i) Trọng tâm của chức năng KTNB: hoạt động của KTNB sẽ tập trung vào các nội dung chính sau:

- Đánh giá thủ tục kiểm soát và khuyến nghị hoàn thiện thủ tục kiểm soát ở tất cả các cấp: việc đánh giá thủ tục kiểm soát được thực hiện qua tất cả các khâu tham gia vào kiểm soát nội bộ. Các phòng, ban, chi nhánh, số lượng và phạm vi mẫu… sẽ được thực hiện theo kế hoạch kiểm toán được xây dựng dựa trên các đánh giá rủi ro. KTNB sẽ phải báo cáo về những phát hiện liên quan đến tính hiệu quả của các thủ tục kiểm soát được đánh giá cùng với khuyến nghị và kế hoạch hành động phù hợp để hoàn thiện các thủ tục này.

- Đánh giá rủi ro: KTNB sẽ phải nhận diện hoạt động chủ chốt của DN cùng rủi ro có liên quan, đồng thời đánh giá mức độ trọng yếu của các rủi ro. KTNB nên lưu ý việc thay đổi các điều kiện kinh doanh và hoạt động của DN sẽ có tác động đến cách thức đánh giá rủi ro mình. Phương pháp tiếp cận của hoạt động KTNB sẽ chuyển dịch từ hình thức thụ động dựa trên các thủ tục kiểm soát sang hình thức chủ động hơn dựa trên các rủi ro. Cách thức này sẽ giúp KTNB nắm bắt trước được các vấn đề và cơ hội trong tương lai, đồng thời nhận diện những tồn tại hiện hữu trong quản trị DN.

- Phân tích hoạt động và thông tin liên quan: DN phải đáp ứng được yêu cầu về nhân lực, chu trình và hệ thống hỗ trợ để có thể đạt được mục tiêu kinh doanh cũng như quản lý được các nguồn lực của mình một cách hiệu quả. KTNB sẽ phối hợp cùng các cấp quản lý để đánh giá hoạt động của DN và báo cáo những phát hiện liên quan. Để làm được việc đó thì KTNB phải hiểu một cách thấu đáo về mục đích chiến lược của DN, từ đó nắm bắt việc vận hành của bất kỳ bộ phận nào trong DN.

- Kiểm tra việc tuân thủ: công việc kiểm tra tuân thủ của KTNB nhằm đảm bảo việc DN tuân thủ các quy định, luật, các hướng dẫn và thông lệ trong quá trình áp dụng vào thực tiễn.

(ii) Các bước cụ thể xây dựng hoạt động KTNB:

Bước 1: xác định cơ cấu tổ chức KTNB trong DN và xác định nhu cầu nhân lực dựa trên quy mô của DN và kỳ vọng của các bên liên quan (chủ sở hữu, cổ đông chính, lãnh đạo cao cấp…).

Bước 2: chỉ định vị trí CAE với các yêu cầu năng lực và miêu tả trách nhiệm cụ thể cùng cơ chế lương thưởng phù hợp.

Bước 3: thiết lập điều lệ KTNB với sự phê duyệt của HĐQT và/hoặc của ủy ban kiểm toán;

Bước 4: phát triển chiến lược KTNB với định hướng đảm bảo hiệu quả và hiệu suất cùng với giá trị gia tăng cho các hoạt động của DN trong lĩnh vực quản lý rủi ro, báo cáo tài chính, kiểm soát nội bộ và chu trình quản trị DN.

Bước 5: triển khai chiến lược thông qua kế hoạch KTNB hàng năm được xây dựng theo phương pháp tiếp cận phù hợp và HĐQT phê duyệt. Việc triển khai hoạt động KTNB cần có đủ nguồn nhân lực có năng lực chuyên môn (hoặc có trợ giúp của tư vấn chuyên nghiệp) và có sự cam kết từ các cấp lãnh đạo.

Bước 6: thiết lập cơ chế quản lý chất lượng và đánh giá hoạt động của KTNB. Việc đánh giá hoạt động KTNB nên được tiến hành hàng năm. CAE sẽ đánh giá các chuyên viên KTNB theo khung năng lực đã được xây dựng. Vị trí CAE sẽ được tổng giám đốc điều hành đánh giá và được HĐQT hoặc ủy ban kiểm toán thông qua.

(iii) Tham khảo phương pháp tiếp cận của Ernst & Young trong việc triển khai các hoạt động của KTNB:

Với kinh nghiệm lâu năm và kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ tư vấn chuyên ngành cho các DN trên nhiều quốc gia trên thế giới, Công ty Ernst & Young đã xây dựng một phương pháp tiếp cận tiên tiến phù hợp với vai trò được kỳ vọng hiện nay của KTNB. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi giới thiệu khái quát về phương pháp tiếp cận này trong việc triển khai công tác KTNB trong DN cho mục đích tham khảo. Chúng tôi sẵn sàng chia sẻ kiến thức ở mức độ chuyên sâu hơn để tư vấn trợ giúp các DN trong bước đầu xây dựng chức năng KTNB trong cơ chế quản trị DN của mình.

Việc triển khai công tác KTNB được chia thành 3 giai đoạn với các mục tiêu và hoạt động khác nhau.

Mục tiêu của giai đoạn đánh giá là giúp DN đánh giá một cách liên tục các loại hình rủi ro gắn liền với chu trình kinh doanh của mình trong mối tương quan với các chức năng kiểm soát rủi ro độc lập.

Mục tiêu của giai đoạn hoàn thiện là giúp DN kết hợp các chức năng kiểm soát rủi to trong việc triển khai các bước hoàn thiện đã được nhận diện nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh một cách hiệu quả nhất.

Mục tiêu của giai đoạn giám sát là các hoạt động giám sát của các chức năng kiểm soát rủi ro, bao gồm cả KTNB, sẽ được triển khai để đánh giá xem các chu trình, sáng kiến, chức năng cũng như hoạt động liên quan của DN đang được vận hành theo đúng thiết kế ban đầu.

Kết luận

Một bài học rút ra từ các thất bại về mặt tài chính cũng như sự sụp đổ của hàng loạt DN chính là vai trò thiết yếu của một nền tảng quản trị DN vững chắc, một cơ chế kiểm soát rủi ro và kiểm soát nội bộ hiệu quả trong sự thành công và phát triển vững bền của một DN. Do tính chất đặt thù cùng với tính khách quan của mình, hoạt động KTNB trong một DN nếu có được hiểu biết sâu sắc về hoạt động kinh doanh của DN đó, cùng với việc được đầu tư phù hợp về các khía cạnh kỹ thuật, phương pháp và nguồn lực, cộng với một mô hình tổ chức hợp lý sẽ mang lại các giá trị gia tăng trong việc hỗ trợ và mang lại đảm bảo và niềm tin cho các bên liên quan, bao gồm nhà đầu tư, cổ đông và lãnh đạo DN. Chúng tôi kỳ vọng bài viết này sẽ giúp đưa ra một định hướng tăng cường quản trị DN mà các DN Việt Nam sẽ cần quan tâm trong giai đoạn hiện nay và về sau.
 
H

hienaway

Guest
14/9/09
7
0
1
43
Dong Anh
Mẫu báo cáo kế toán nội bộ

:015:Cảm ơn kinhcan007, bài viết về KTNB rất ấn tượng. Tôi muốn được trao đổi cụ thể về biểu mẫu báo cáo cần sử dụng trong KTNB và cách thức lập báo cáo KTNB như thế nào?
Nếu như kinhcan007 quan tân đến kế toán quản trị nữa thì trao đổi luôn nghe?
 
T

thanhtienbl

Guest
30/7/09
2
0
0
bao loc
:015:Cảm ơn kinhcan007, bài viết về KTNB rất ấn tượng. Tôi muốn được trao đổi cụ thể về biểu mẫu báo cáo cần sử dụng trong KTNB và cách thức lập báo cáo KTNB như thế nào?
Nếu như kinhcan007 quan tân đến kế toán quản trị nữa thì trao đổi luôn nghe?

bài viết của kinhcan007 chi tiết wa
cần học hỏi, cần học hỏi
 
H

hiepkhach77

Guest
16/4/09
2
0
0
37
fasfdafafa
minh moi đọc bài của bạn trên ưeb kế toán , và mình dang có ý định viết đề tài về lĩnh vực này
ku van: bạn có thể hỗ trợ mình ko?
nickYAHOO: one_aND_KIND0907
DT 0168 365.2002
 
kinhcan007

kinhcan007

Cao cấp
15/8/07
536
4
0
Ha noi
:015:Cảm ơn kinhcan007, bài viết về KTNB rất ấn tượng. Tôi muốn được trao đổi cụ thể về biểu mẫu báo cáo cần sử dụng trong KTNB và cách thức lập báo cáo KTNB như thế nào?
Nếu như kinhcan007 quan tân đến kế toán quản trị nữa thì trao đổi luôn nghe?

Rất sẵn sàng được chia sẻ cùng bạn.
 

Xem nhiều