Một số nội dung của Kiểm toán hoạt động- Phần 1

  • Thread starter phamcung
  • Ngày gửi
phamcung

phamcung

Guest
30/9/05
378
13
0
Hanoi
Bài viết này được đăng trên của người viết được đăng trên Thời Báo Tài chính- post lên để mọi người cùng tham khảo
Luật Kiểm toán nhà nước đã được kỳ họp thứ 7, Quốc Hội khoá 11 thông qua vào ngày 14 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2006. Luật Kiểm toán nhà nước (KTNN) bao gồm 8 chương, 76 điều quy định về tổ chức và hoạt động của KTNN. Luật KTNN dành hẳn một chương riêng (chương IV gồm 7 mục, 29 điều- hơn một phần ba số điều của cả Luật này) quy định về nội dung hoạt động kiểm toán của KTNN. Trong đó mục 2 của chương này (từ điều 36 tới điều 40) quy định về các loại hình kiểm toán. Bài viết này nhằm cung cấp cho người đọc một số tư liệu về một trong những loại hình kiểm toán được quy định- Kiểm toán hoạt động.


Kiểm toán hoạt động- một nội dung công việc của kiểm toán nhà nước

Điều 36 Luật KTNN quy định có 3 loại hình Kiểm toán là (1) Kiểm toán báo cáo tài chính; (2) Kiểm toán tuân thủ và (3) là Kiểm toán hoạt động, và quy định Tổng Kiểm toán Nhà nước quyết định loại hình kiểm toán của từng cuộc kiểm toán. Nội dung của Kiểm toán hoạt động được quy định tại điều 39, trong đó kiểm toán viên phải kiểm tra (1) tình hình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ hoạt động của đơn vị; (2) Việc bảo đảm, quản lý và sử dụng các nguồn lực; (3) Hệ thống Kiểm soát nội bộ; (4) Các chương trình, dự án, các hoạt động của đơn vị được kiểm toán và (5) Tác động của môi trường bên ngoài đối với tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của đơn vị được kiểm toán.

Các quy định về các loại hình kiểm toán của Luật KTNN Việt Nam là phù hợp với cách tiếp cận của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao (INTOSAI- International Organisation of Supreme Audit Institutions) tại tuyên bố Lima (Lima Declaration) tháng 10 năm 1977 theo đó kiểm toán được chia làm hai loại hình: kiểm toán tính tuân thủ theo pháp luật và quy định (legality and regularity audit) của hệ thống quản lý tài chính và kế toán và kiểm toán hoạt động. INTOSAI cho rằng các mục tiêu về tính tuân thủ theo pháp luật và quy định, tính kinh tế, tính hiệu quả, tính hiệu lực có mức độ quan trọng như nhau và Tổng Kiểm toán sẽ quyết định thứ tự ưu tiên đối với từng trường hợp cụ thể.
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
phamcung

phamcung

Guest
30/9/05
378
13
0
Hanoi
Một số nội dung của Kiểm toán nội bộ- Phần 2

Kiểm toán hoạt động- Các nội dung cụ thể

Các tiêu thức để đánh giá các nội dung hoạt động của đơn vị được kiểm toán được nêu tại điều 4, theo đó Kiểm toán hoạt động là loại hình kiểm toán để kiểm tra đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của nhà nước.

Câu hỏi được đặt ra ở đây là thế nào là tính kính tế, hiệu lực và hiệu quả? Thông thường, trong các tài liệu tiêng Anh về kiểm toán hoạt động, các nội dung này thường được giới thiệu như là nguyên lý 3E (Economy- tính kinh tế, Efficiency- tính hiệu suất, hiệu lực và Effectiveness- tính hiệu quả).

Tính kinh tế - Economy được hiểu là đạt đuợc mục tiêu mà tiêu tốn ít hơn hoặc sử dụng ít nguồn lực hơn (ít nguồn lực nhất). Hoạt động của một đơn vị không có tính kinh tế, nếu đơn vị đó dư thừa nhân viên một cách không cần thiết (tức là có thể đạt được mục tiêu với ít nhân lực hơn), hoặc đơn vị đó đã không thể mua được nguyên vật liệu phục vụ sản xuất với giá rẻ hơn (tức là sử dụng ít nguồn lực tài chính hơn).

Tính hiệu lực/ hiệu suất- Efficiency thể hiện mối quan hệ giữa hàng hoá và dịch vụ được sản xuất và cung ứng (đầu ra) với các nguồn lực đầu vào. Một quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu suất (cao) nếu quá trình đó có thể đạt được sản lượng đầu ra ở mức tối đa trên cùng một lượng đầu vào, hoặc hiểu theo một cách khác là tối thiểu hoá chi phí đầu vào trên cùng một đơn vị đầu ra. Ví dụ như một nhà máy sản xuất ô tô với công suất là 10,000 chiếc một năm với 300 công nhân sẽ đạt được tính hiệu suất -efficiency nếu đạt được 10,000 chiếc một năm với cùng nguồn nhân lực 300 công nhân.

Tính hiệu quả- Effectiveness có nghĩa là đảm bảo rằng đầu ra của một quy trinh sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ mang lại kết quả như mong muốn. Nói một cách khác, tính hiệu quả được thể hiện ở việc đơn vị có hoàn thành các mục tiêu theo kế hoạch hay không và nếu hoàn thành thì hoàn thành như thế nào.

Một số lưu ý khi đánh giá các nội dung 3E

Khi xem xét tính kinh tế, việc cắt giảm chi phí một cách đơn thuần có thể không đảm bảo tính kinh tế do chỗ chất lượng có thể bị ảnh hưởng một cách tiêu cực. Việc cắt giảm chi phí do đó chỉ mang lại tính kính tế thực sự nếu chất lượng vẫn được đảm bảo. Ví dụ tại một cơ sở đào tạo chúng ta có thể giảm chi phí nhân lực bằng cách có ít giáo viên hơn. Tuy nhiên nếu việc có ít giáo viên hơn ảnh hưởng tới chất lượng của việc đào tạo học sinh (ví dụ, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp ít hơn) thì việc giảm chi phí nhân lực không mang lại tính kinh tế như mong muốn.

Vấn đề thứ hai là khi xem xét tính hiệu suất/ hiệu lực (Efficiency) và tính hiệu quả (Effectiveness), điều quan trọng là chúng ta phải đo lường được chi phí đầu vào và sản lượng đầu ra. Ở các đơn vị kinh doanh thì việc đo lường này có thể thực hiện được mà không gặp khó khăn đáng kể. Ở các tổ chức phi lợi nhuận điều này khó thực hiện hơn nhiều. Ví dụ, làm thế nào để đánh giá tính hiệu suất hay hiệu quả của công tác đào tạo tại một cấp học của một trường học, của một tỉnh hay của cả nước. Rõ ràng là việc dùng chỉ tiêu tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cấp học cũng không phải là chỉ tiêu thích hợp nhất. Ví dụ như ở Khánh Hoà, tỷ lệ tốt nghiệp của học sinh năm nay thấp hơn năm trước, điều đó có nghĩa là tính hiệu quả và hiệu suất giảm đi hay không hay chỉ đơn thuần là do năm nay công tác trông thi được xiết chặt hơn. Nếu đúng như vậy thì nên thay việc đánh giá tính hiệu quả của công tác giáo dục từ việc sử dụng tỷ lệ học sinh tốt nghiệp sang chỉ số nào mới là phù hợp.
 
phamcung

phamcung

Guest
30/9/05
378
13
0
Hanoi
Một số nội dung của Kiểm toán nội bộ- Phần 3

Kiểm toán hoạt động hay kiểm toán báo cáo tài chính

Kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ vẫn là hai loại hình kiểm toán chủ yếu được KTNN thực hiện do một số lý do cơ bản sau:

Thứ nhất, kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ trực tiếp đạt được mục đích kiểm toán. Mục đích kiểm toán, theo quy định tại điều 5 lụât KTNN Việt Nam là nhằm phục vụ việc kiểm tra, giám sát của nhà nước trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của nhà nước. Thông thường Kiểm toán báo cáo tài chính sẽ trả lời ngay cho câu hỏi, liệu ngân sách nhà nước có được sử dụng đúng với mục đích như đã được Quốc hội phê duyệt hay không và việc chi tiêu có tuân thủ các quy định của nhà nước hay không.

Thứ hai là trình độ và kiến thức của đội ngũ kiểm toán viên nói chung và của cơ quan Tổng kiểm toán nói riêng từ trước đến nay đều được xây dựng và tích luỹ với trọng tâm và định hướng là để thực hiện các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ. Vấn đề kiểm toán hoạt động chỉ mới được đặt ra trong thời gian gần đây và do vậy cần phải có một khoảng thời gian nhất định để bồi dưỡng đội ngũ kiểm toán viên để có thể có khả năng thực hiện các cuộc kiểm toán hoạt động.

Thứ ba, là chi phí của mỗi một cuộc kiểm toán hoạt động thường cao hơn rất nhiều so với chi phí của một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính hay kiểm toán tuân thủ. Nguyên nhân là do phạm vi kiểm toán rộng hơn, đội ngũ cần có nhiều cán bộ kiểm toán cấp cao hơn vì chỉ có những người này mới có kiến thức, hiểu biết và kinh nghiệm tốt hơn về đơn vị được kiểm toán, từ đó mới đánh giá được đúng đắn hơn tính kinh tế, hiệu lực/ hiệu suất và hiệu quả của đơn vị được kiểm toán. Tronh nhiều trường hợp, do không đủ chuyên môn, Kiểm toán bắt buộc phải thuê chuyên gia ngành để giúp đánh giá chính xác hơn hoạt động của đơn vị kiểm toán. Chính vì vậy mà chi phí kiểm toán cũng bị tăng lên.
 
phamcung

phamcung

Guest
30/9/05
378
13
0
Hanoi
Một số nội dung của kiểm toán hoạt động- Phần 4

Mặc dầu vậy kiểm toán hoạt động sẽ ngày càng giữ vai trò quan trọng và trong tương lai có thể sẽ là loại hình kiểm toán được thực hiện chủ yếu không những trong khu vực công (sử dụng ngân sách của nhà nước) mà còn tại các đơn vị kinh doanh do các hang kiểm toán chuyên nghiệp độc lập thực hiện do các nguyên nhân sau:

Thứ nhất, và quan trọng hơn cả, là chỉ có kiểm toán hoạt động mới đưa ra được kết luận thực sự về việc ngân sách, tiền và tài sản của nhà nước có được sử dụng một cách có hiệu quả hay không cũng như đưa ra các đề xuất để tăng cường tính hiệu quả của việc sử dụng ngân sách. Ví dụ như kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ có thể đưa ra xác nhận về việc tỉnh A sử dụng đúng 10 tỷ đồng để xây dựng 10 ngôi trường (300 phòng học) theo đúng như ngân sách đã được duyệt và tuân thủ các quy chế của nhà nước về xây dựng và đấu thầu. Tuy nhiên bằng chứng thu được từ kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ vẫn có thể chưa đủ để trả lời câu hỏi là liệu việc chi tiêu này có tính hiệu suất/ hiệu lực (efficiency) (có thể xây được hơn 300 phòng học với 10 tỷ đồng này hay không), tính hiệu quả (effectiveness) (chất lượng của các ngôi trường được xây như thế nào, tồn tại qua được mấy mùa lũ), và rộng hơn, tính kinh tế (economy) (liệu 10 tỷ đồng đó có được sử dụng một cách tốt nhất trong việc nâng cao chất lượng giáo dục hay không- nghĩa là có thể sử dụng 10 tỷ đồng đó vào mục đích khác việc xây trường- ví dụ nâng cao chất lượng giáo viên- để từ đó đạt được mục tiêu là nâng cao chất lượng giáo dục hay không).

Thứ hai là trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ kiểm toán sẽ được nâng cao, nếu kiểm toán hoạt động có được sự quan tâm và đầu tư thích đáng của cơ quan Tổng kiểm toán nhà nước. Khi trình độ chuyên môn, kiến thức hiểu biết cũng như kinh nghiệm và đơn vị được kiểm toán trở nên sâu rộng hơn, chi phí cho mỗi cuộc kiểm toán hoạt động sẽ giảm đi và do vậy bản than việc áp dụng kiểm toán hoạt động vào thực tế sẽ đảm bảo được tính kinh tế, hiệu suất/ hiệu lực và hiệu quả và mang tính thực tiễn hơn, thực sự mang lại giá trị (added value) cho các đơn vị được kiểm toán.

Kêt luận

Kiểm toán hoạt động (Performance Audit) còn được gọi là Kiểm toán Giá trị tiền tệ (tạm dịch từ nguyên văn Tiêng Anh là Value-For-Money Audit) là một loại hình kiểm toán đang trở thành phương pháp tiếp cận quan trọng hơn không những đối với KTNN mà còn đối với các hãng kiểm toán độc lập chuyên nghiệp. Hiện tại loại hình kiểm toán này được thực hiện nhằm hỗ trợ cho loại hình kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ và sẽ trở thành đặc biệt quan trong khi vấn đề cải cách khu vực công (khu vực hành chính-sự nghiệp nhà nước) đang trở nên cấp thiết với trọng tâm là nâng cao tính kinh tế, hiệu suất và hiệu quả của những đơn vị này .
 
nedved

nedved

Guest
14/7/04
687
2
0
Xa xa nương dâu
FS Audit, Performance Audit, Compliance Audit.

Cho em hỏi một câu, đối với Performance Audit, Compliance Audit thì hiện nay Quốc tế có Chuẩn mực nào quy định về vấn đề này hay không?

Một vấn đề thực tế đã gặp là TOR của một khách hàng đòi hỏi KTV phải đưa ra 3 báo cáo kiểm toán về FS, Performance, Compliance. Tuy nhiên, trường hợp này KTV sẽ phải thực hiện cuộc kiểm toán với các thủ tục khác nhau nhằm thu được đảm bảo về 3 yêu cầu này hay là thực hiện các thủ tục kiểm toán FS thông thường và từ kết quả đó đưa ra ý kiến về cả ba.

Cũng trong vấn đề này, thì mẫu chọn đối với Performance và Compliance Audit được xác định ntn, có khác với FS audit hay không, hay là lấy luôn mẫu chọn khi thực hiện FS audit? Và thực tế là KTV đã thực hiện FS Audit với mẫu chọn của FS audit và dùng kết quả thu được để đưa ra ý kiến cho cả 3 yêu cầu trên. Trong Auditors' opinion về Performance và Compliance có đoạn modify rõ về scope of work này.
 
phamcung

phamcung

Guest
30/9/05
378
13
0
Hanoi
Performance Audit, Compliance Audit and Financial Audit

Cái được gọi là Performance Audit trên thực tế chưa được áp dụng một cách rộng rãi, nếu chưa muốn nói là chỉ được áp dụng trên cơ sở thử nghiệm. Ở PwC cách đây vài năm, audit approach cũng được xây dựng theo hướng làm Performance, nhung cũng chỉ dám gọi là "Toward Performance Audit" thôi chứ không dám dọi là Performance audit.

Các chuẩn mực kiểm toán nói chung áp dụng cho tất cả các loại audit. Thông thường khi người ta nhắc tới Performance Audit, người ta hay tham khảo thêm các chuẩn mực kiểm toán của INTOSAI, các chuẩn mực này thường được áp dụng cho các cuộc kiểm toán công (kiểm toán tình hình chi tiêu của các cơ quan sự dụng vốn ngân sách nhà nước nhiều hơn)

Nếu TOR đòi hỏi cả ba loại báo cáo thì chú gặp phải khách hàng củ chuối rồi. Ở đây anh chỉ đưa ra một gợi ý mang tính thực tiến. Đó là coi hai cuộc kiểm toán performance và compliance như là hai phần mở rộng của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Nghĩ là làm FS sẽ phải bao gồm cả công viêc test compliance, còn làm performance audit sẽ phải có thêm các technical expert để đánh giá 3E. Nguyên lý chọn mẫu không khác nhau là mấy, có điều mục đích của các cuộc audit là khác nhau mà thôi.

Ví dụ: Đi audỉt một dự án xoá mù chữ. Mục tiêu của FS sẽ là Truth and Fairness của Báo cáo tài chính, mục tiêu của compliance là kiểm tra tính tuân thủ của tình hình thực hiện dự án theo các văn kiện dự án và các quy định của nhà tài trợ, Performance Audit là đánh giá 3E của các hoạt động cũng như các kết quả (outcome) của dự án. Chú vẫn phải lựa chọn các material items (bằng tiền) để kiểm toán (cho FS), vấn phải lựa chọn các quy trình kiểm soát cơ bản để kiểm tra tính tuân thủ, phải lựa chọn các outcomes để đánh giá performance. Tóm lại các cuộc kiểm toán vẫn cứ là trên test basis, vẫn cứ đòi hỏi phải có planning, vẫn cứ phải có documentation, vẫn cứ phải có Analytical Review,... tức là vẫn cứ phải tuân thủ các chuẩn mực kế toán như là đối với FS (bao gồm cả chọn mẫu).

Thực tế là ở chố anh bây giờ mới chỉ làm thử một cái performance audit mà ngay T.O.R đã thấy khó viết rôi. Bây giờ đã lựa chọn được auditor rồi nhưng chưa biết họ làm ăn ra sao nữa.

nedved nói:
FS Audit, Performance Audit, Compliance Audit.

Cho em hỏi một câu, đối với Performance Audit, Compliance Audit thì hiện nay Quốc tế có Chuẩn mực nào quy định về vấn đề này hay không?

Một vấn đề thực tế đã gặp là TOR của một khách hàng đòi hỏi KTV phải đưa ra 3 báo cáo kiểm toán về FS, Performance, Compliance. Tuy nhiên, trường hợp này KTV sẽ phải thực hiện cuộc kiểm toán với các thủ tục khác nhau nhằm thu được đảm bảo về 3 yêu cầu này hay là thực hiện các thủ tục kiểm toán FS thông thường và từ kết quả đó đưa ra ý kiến về cả ba.

Cũng trong vấn đề này, thì mẫu chọn đối với Performance và Compliance Audit được xác định ntn, có khác với FS audit hay không, hay là lấy luôn mẫu chọn khi thực hiện FS audit? Và thực tế là KTV đã thực hiện FS Audit với mẫu chọn của FS audit và dùng kết quả thu được để đưa ra ý kiến cho cả 3 yêu cầu trên. Trong Auditors' opinion về Performance và Compliance có đoạn modify rõ về scope of work này.
 
nedved

nedved

Guest
14/7/04
687
2
0
Xa xa nương dâu
Thanks anh Cung,

Đúng là bọn em gặp chú banana thật. Chỉ có điều phí nó cao thì phải chấp nhận thôi. Khách hàng không hiểu lắm về performance audit nên giao dịch cũng khó khăn. Deloitte cũng có một số guideline về vấn đề này nhưng chắc cũng gần giống PWC thôi nên áp dụng vào thực tế gặp nhiều vướng mắc lắm.

phamcung nói:
Thực tế là ở chố anh bây giờ mới chỉ làm thử một cái performance audit mà ngay T.O.R đã thấy khó viết rôi. Bây giờ đã lựa chọn được auditor rồi nhưng chưa biết họ làm ăn ra sao nữa.

Anh chọn được Auditor rồi à, Em cũng có làm mấy cái Operational audit cho mấy dự án của các Đại sứ ở VN nên cũng đúc rút được một chút kinh nghiệm, có cái nào mới thì mời bọn em một tiếng nhé
 
A

AppleIpod

Guest
13/10/05
11
0
0
California, USA
phamcung nói:
.....

Kiểm toán hoạt động (Performance Audit) còn được gọi là Kiểm toán Giá trị tiền tệ (tạm dịch từ nguyên văn Tiêng Anh là Value-For-Money Audit) là một loại hình kiểm toán đang trở thành phương pháp tiếp cận quan trọng hơn không những đối với KTNN mà còn đối với các hãng kiểm toán độc lập chuyên nghiệp. Hiện tại loại hình kiểm toán này được thực hiện nhằm hỗ trợ cho loại hình kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ và sẽ trở thành đặc biệt quan trong khi vấn đề cải cách khu vực công (khu vực hành chính-sự nghiệp nhà nước) đang trở nên cấp thiết với trọng tâm là nâng cao tính kinh tế, hiệu suất và hiệu quả của những đơn vị này .

Value-for-Money Audit mà dịch là Kiểm toán Giá trị Tiền tệ thì kỳ quá, vì ý nghĩa bị lệch đi hết cả. Không dám mang tiếng là bắt bẻ, nhưng em nghĩ dịch là Kiểm toán Hiệu quả Đầu tư (hoặc Hiệu quả Tài trợ) thì sát nghĩa về tiếng Việt hơn. (Value = kết quả của dự án etc. Money = vốn rót từ nhà tài trợ, Value for Money nôm na thì giống như kiểu tiền trao cháo múc, V-f-M audit là kiểm toán xem cháo đấy chất lượng ra sao, có đáng đồng tiền bát gạo bỏ ra không).

Đấy là 2 xu của em :biggrin: (that's my 2 cents! :jump: )
 
phamcung

phamcung

Guest
30/9/05
378
13
0
Hanoi
Valuefor Money Audit

Gủi Apple- Đúng là Value for Money Audit mà dịch ra là Kiểm toán giá trị tiền tệ thì nghe rất khiên cưỡng. Ở Việt Nam mình cũng chưa thấy có một thuật ngữ chuẩn tương được. Còn kiểm toán hiệu quả đầu tư nghe có vẻ cũng không ổn, vì nếu là hiệu quả (effectiveness) thì chỉ lại là một khía cạnh của Value for Money Audit thôi. Cho nên là mình cũng chỉ dám gọi là "dịch nôm" VFM. Rất mong các bạn cùng góp ý
 
A

AppleIpod

Guest
13/10/05
11
0
0
California, USA
phamcung nói:
Gủi Apple- Đúng là Value for Money Audit mà dịch ra là Kiểm toán giá trị tiền tệ thì nghe rất khiên cưỡng. Ở Việt Nam mình cũng chưa thấy có một thuật ngữ chuẩn tương được. Còn kiểm toán hiệu quả đầu tư nghe có vẻ cũng không ổn, vì nếu là hiệu quả (effectiveness) thì chỉ lại là một khía cạnh của Value for Money Audit thôi. Cho nên là mình cũng chỉ dám gọi là "dịch nôm" VFM. Rất mong các bạn cùng góp ý

---WEV----
 
Sửa lần cuối:

Xem nhiều

Webketoan Zalo OA