Điều 31- Luật kế toán. Thời hạn nộp báo cáo tài chính
1. Báo cáo tài chính năm của đơn vị kế toán phải được nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm theo quy định của pháp luật; đối với báo cáo quyết toán ngân sách thì thời hạn nộp báo cáo được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
2. Chính phủ quy định cụ thể thời hạn nộp báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách cho từng lĩnh vực hoạt động và từng cấp quản lý.
Khoản 5 điều 4 về giải thích từ ngữ của Luật kế toán
Đơn vị kế toán là đối tượng quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều 2 của Luật này có lập báo cáo tài chính.
Và khoản 1 điều 2
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Đối tượng áp dụng của Luật này bao gồm:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước;
b) Đơn vị sự nghiệp, tổ chức không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước;
c) Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam; chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
d) Hợp tác xã;
Thế này thì thấy là Luật Kế toán quy định là hạn nộp báo cáo tài chính là trong vòng 90 ngày cho các đơn vị kế toán (mà hiểu nôm na là tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế) đâu có phân biệt TNHH, hợp danh hay gì đâu.
Thế cho nên:
1. Nghị định 129 là trái với luật kế toán. Mà luật cao hơn nghị định hướng dẫn. Do đó Nghị định (điều khoản liên quan tới hạn nộp) là vô hiệu
Trích là Nghị định 129 mà HaiTam đã dẫn
Theo quy định tại Điều 20 Nghị định của Chính phủ số 129/2004/NĐ – CP ngày 31/05/2004 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kế toán áp dụng trong hoạt động kinh doanh: “Đơn vị kế toán là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh phải nộp báo cáo tài chính năm chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kết thúc kỳ kế toán năm; đối với các đơn vị kế toán khác, thời hạn nộp báo cáo tài chính năm chậm nhất là 90 ngày ”.
2. Luật kế toán lại mâu thuẫn với Luật DN vì
Khoản 3- điều 118, Luật Doanh nghiệp 1999
Trong thời hạn 30 ngày đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh, 90 ngày đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, kể từ ngày kết thúc năm tài chính, báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp phải được gửi đến cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền
Cái này mới gay đây vì không biết sẽ phải dẫn chiếu tới luật nào khi hai luật có mâu thuẫn. Theo mình phải dẫn chiếu tới luật kế toán vì:
1. Cái phần báo cáo tài chính là đặc sản của công tác kế toán và do đó nên để cho luật kế toán điều chỉnh
2. Bản thân luật doanh nghiệp, ở điều 118 quy định về báo cáo tài chính cũng rất mù mờ "báo cáo tài chính gồm bản cân đối kế toán và bản quyết toán tài chính (thế báo cáo doanh thu, lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính, báo cáo của kiểm toán viên về báo cáo tài chính) là cái gì?
3. Luật kế toán tân tiến hơn luật DN về mặt thời gian (2003 so với 1999) do đó, sự phân biệt đối xử đã được khắc phục phần nào.
Bây giờ nói mà không dẫn chiếu tới luật. Theo mình không nên có sự phân biệt đối xử về hạn nộp báo cáo như hiện nay mà nên có sự phân biệt theo hình thức là nếu công ty nào là công ty cổ phần có chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng khoán thì phải có hạn nộp báo cáo khác với các công ty khác