Đúng là cách xử phạt trên đã được quy định rất rõ tại Thông tư 61/2007/TT-BTC:
Em thực sự vẫn chưa rõ những tình tiết nào sẽ thuộc loại "tình tiết giảm nhẹ". Rất mong được Bác tư vấn. Em cảm ơn nhiều!
Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng ở Thông tư 61/2007/TT-BTC đây:
1. Tình tiết tăng nặng
Các tình tiết tăng nặng trong vi phạm pháp luật về thuế bao gồm :
1.1. Vi phạm có tổ chức là trường hợp có hai người trở lên cấu kết chặt chẽ với nhau, cố ý cùng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế hoặc thông đồng lập hồ sơ, chứng từ mua bán hàng hoá, chứng từ khai thuế, nộp thuế, sổ kế toán phản ánh không đúng với nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
1.2. Vi phạm nhiều lần trong lĩnh vực thuế là trường hợp thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế thuộc loại hành vi nêu tại điểm 3, Mục I Phần A Thông tư này mà trước đó đã vi phạm nhưng chưa bị xử phạt và chưa hết thời hiệu xử phạt.
1.3. Tái phạm trong lĩnh vực thuế là trường hợp đã bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế nhưng chưa hết thời hạn một năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành của quyết định xử phạt mà lại thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế đã bị xử phạt.
1.4. Xúi giục, lôi kéo người chưa thành niên vị phạm, ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần vi phạm.
1.5. Vi phạm trong tình trạng say do dùng rượu bia hoặc các chất kích thích khác.
1.6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm.
1.7. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh thiên tai hoặc những khó khăn khách quan đặc biệt khác của xã hội để vi phạm.
1.8. Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
1.9. Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó.
1.10. Sau khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế đã có hành vi trốn tránh, che dấu hành vi đã vi phạm.
2. Tình tiết giảm nhẹ
Những tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ:
2.1. Người vi phạm đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của hành vi vi phạm hoặc khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại, đã tự kê khai điều chỉnh những sai sót về hồ sơ đăng ký thuế, hồ sơ khai thuế; đã nộp vào Ngân sách Nhà nước số thuế kê khai thiếu, số thuế đã hoàn, số thuế miễn, giảm không đúng so với thực tế phát sinh.
2.2. Người vi phạm đã tự nguyện khai báo, thành thật nhận sai sót và kê khai, điều chỉnh các lỗi sai sót.
2.3. Người vi phạm do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần.
2.4. Người vi phạm là phụ nữ có thai, người già yếu, người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, người có bệnh hoặc tàn tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình. Để có căn cứ xác nhận tình tiết giảm nhẹ, người vi phạm phải có giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền; đối với người chưa thành niên thì phải có giấy khai sinh hoặc giấy tờ hợp pháp chứng minh; người già yếu đối với nữ là từ đủ 55 tuổi trở lên, đối với nam từ đủ 60 tuổi trở lên.
2.5. Vi phạm trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra.
2.6. Vi phạm do chưa nắm được chính sách pháp luật về thuế trong các trường hợp: Người vi phạm có trình độ lạc hậu; người sống ở vùng nông thôn, xa xôi, hẻo lánh, có điều kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn nên chưa nhận thức đầy đủ các quy định mới của pháp luật về thuế.
2.7. Vi phạm trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành động trái pháp luật của người khác gây ra.
Công văn của Tổng Cục Thuế chỉ giải thích, hướng dẫn Thông tư, Nghị định thôi, chỉ nêu lại quy định tại Nghị định 51/2010/NĐ-CP, đâu có quy định gì mới đâu và cũng đâu có đính chính gì Thông tư 153???