Tháng lương thứ 13, quan điểm và thực hiện chính sách

  • Thread starter Vualua
  • Ngày gửi
Vualua

Vualua

Geosynthetics
18/12/03
307
8
18
51
Hà Nội
www.asx.com.au
Có rất nhiều bạn đã gửi thư vào hộp thư của mình hỏi về vấn đề này. Vualua đã không còn làm kế toán đã lâu, nhưng với hiểu biết của bản thân thì mình xin trả lời các bạn như sau:

1. Việc xây dựng chính sách thuế tại Việt nam rất rõ ràng, cũng như các nước. Vấn đề chính khi xây dựng chính sách bao giờ cũng xem xét việc tránh trùng thuế và dĩ nhiên cơ quan chính sách cũng xem xét các khả năng có thể gây kẽ hở cho việc doanh nghiệp và cá nhân có thể trốn thuế.

2. Quan điểm về thuế thu nhập (Thuế TNDN, thuế thu nhập cá nhân ...) đối với các khoản chi trả mang tính chất tiền lương dựa trên các giao dịch giữa doanh nghiệp, cá nhân người lao động được tính trên mỗi quan hệ này như sau:
- Doanh nghiệp trả lương cho người lao động: Nếu có BẰNG CHỨNG TRÍCH NỘP THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN các khoản chi trả mang tính chất tiền lương, doanh nghiệp sẽ được ghi nhận là chi phí hợp lý hợp lệ. Dòng tiền thuế này sẽ do người lao động thực hiện nghĩa vụ thuế thông qua tổ chức chi trả hoặc tự thân thực hiện.
- Doanh nghiệp không trả lương và không trich nộp thuế TNCN: Không thể tính chi phí hợp lý hợp lệ cho doanh nghiệp được. Thuế TNDN là dòng tiền cơ quan thuế thu từ doanh nghiệp.

Vấn đề khi doanh nghiệp lỗ mà vẫn chi trả tháng lương thứ 13: Cơ quan thuế hoàn toàn có lợi khi thu thêm thuế TNCN.

Việc chi trả tháng lương thứ 13 có bị hạn chế không? Không thể nếu doanh nghiệp trả cao hơn quy định tại hợp đồng lao động và luật lao động và có văn bản thỏa ước tập thể.

Như vậy dòng tiền lòng vòng này xem chứng rất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và cơ quan thuế họ chỉ quan tâm một điều là thu đúng, đủ và càng nhiều càng tốt nhưng phải đúng.

3. Doanh nghiệp cần làm gì khi làm việc với cơ quan thuế: Phải chứng minh các khoản chi trả cho người lao động có tính chất tiền lương. Phải đọc luật lao động, có văn tự thỏa ước tập thể, có hợp đồng lao động, có phiếu thanh toán lương, có chứng từ chi trả lương, chứng từ trích và nộp thuế thu nhập cá nhân của rổ chức ủy nhiệm thu, đã nộp tiền vào kho bạc.....

Việc xảy ra gian lận thuế có thể xảy ra ở một quy mô thu nhập nào đó nhưng phải có sự hợp tác của toàn thể người lao động và doanh nghiệp >Rất khó thực hiện nhưng cơ quan thuế vẫn thu được thuế.

4. Cơ quan thuế có làm sai không? Có! DN có quyền kiện kiện không? Có!
5. Chính sách có sai không? Có thể! Doanh nghiệp làm gì? Đòi quyền lợi và kiến nghị bổ sung. Kiến nghị có thể gửi cấp trên của ngành thuế là bác Vương Đình Huệ là bộ tài chính không được thì lên đến thủ tướng chính phủ và cao nhất là Quốc Hội.

6. Các văn bản dưới thông tư của cơ quan thuế có sai không? Có thể.

Cách tính thuế như thế nào? Cứ theo luật mà thực hiện (Cao chỉ sau hiến pháp).

Đó là các nội dung mình trao đổi, có một cách nữa là các bạn cứ đồng chí Và Anh Tới trên diễn đàn này mà phệt (Vì đồng chí này nắm rõ hơn mình). Nếu đồng chí này chịu thua thì có cơ hội thành công khi làm việc với cơ quan thuế.
 
Sửa lần cuối:
Khóa học Quản trị dòng tiền
Khuatquangthin

Khuatquangthin

0034APC
Theo Thìn thì việc thực hiện chính sách lương tháng thứ 13 nghe tên thấy không ổn, Tôi đi làm liên tục 12 tháng thôi mà, sao lại có vụ lãnh lương tháng thứ 13 chứ. Nói chính xác ra đây phải gọi là phần thưởng mới đúng, là ông chủ tôi thưởng cho tôi vì những đóng góp của tôi vào việc phát triển của Công ty ông ta. Nhưng nếu ghi trên chứng từ là tiền thưởng thì CB-Thuế, Họ cho rằng nếu là thưởng thì phải trích từ thu nhập sau thuế TNDN của Công ty mà trả hoặc lấy từ Qũy khen thưởng phúc lợi. Mà Quỹ này các DNTN, CTy TNHH nói chung là Kinh tế tư nhân thì làm gì có. LỢi nhuận họ làm ra là để chia cho Cổ đông góp vốn không hình thành hay trích lập cái Quỹ nghe rất kêu này. CB thuế sẽ loại trừ ra khỏi chi phí hợp lý khi tính thuế TNDN và thế là thuật ngữ tháng lương thứ 13 ra đời.
Vậy tháng lương thứ 13 được tính như thế nào. Các doanh nghiệp hay tính là cộng hết thu nhập 12 tháng trong năm lại và chia đều cho 12 tháng thế là ra tháng lương 13 phải trả.
Như vậy ít nhất tháng lương thứ 13 sẽ phải bằng lương bình quân các tháng trong năm và nhiếu nhất là bao nhiêu? Không ai biết được vậy CB thuế sẽ chấp nhận mức lương tháng thứ 13 là bao nhiêu? Cũng không ai biết.
Như vậy ông chủ muốn tính tháng lương thứ 13 nhiều lên cũng không dám tính bởi nếu mình tính nhiều quá lúc CB Thuế xuống thanh tra không chấp nhận thì sao.
Như vậy phải đọc kỹ các văn bản pháp luật xem việc tính toán này như thế nào.
Căn cứ theo Thông tư số 18/2011/TT-BTC ngày 10/02/2011 sửa đổi bổ sung điểm 2.5b mục IV phần C Thông tư 130/2008/TT-BTC như sau:
" Không được tính vào chi phí được trừ: Các khoản tiền thưởng cho người lao động KHÔNG được ghi cụ thể điều kiện được hưởng và mức được hưởng tại một trong các hồ sơ sau: Hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, quy chế tài chính của Công ty, Tổng Công ty, Tập đoàn, quy chế thưởng do Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, giám đốc quy định the quy chế tài chính của Công ty, Tông Công ty"

Do đó về tháng lương 13 này nên trả về đúng ý nghĩa của nó là khoản tiền thưởng và được quy định rõ ràng trong Hợp đồng lao động, ghi luôn trong Thỏa ước Lao động tập thể đăng ký với Liên đoàn lao động, hoặc ban hành Quy chế Tài chính của Công ty trong đó quy định rõ điều kiện được hưởng.

Như vậy vừa đúng quy định của pháp luật vừa đảm bảo được quyền lợi của CB-NV.
 
Vualua

Vualua

Geosynthetics
18/12/03
307
8
18
51
Hà Nội
www.asx.com.au
Xin trả lời ban khuất quang thìn như sau:
Căn cứ theo Thông tư số 18/2011/TT-BTC ngày 10/02/2011 sửa đổi bổ sung điểm 2.5b mục IV phần C Thông tư 130/2008/TT-BTC như sau:
" Không tính vào chi phí được trừ: Các khoản tiền thưởng cho người lao động KHÔNG được ghi cụ thể điều kiện được hưởng và mức được hưởng tại một trong các hồ sơ sau: Hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, quy chế tài chính của Công ty, Tổng Công ty, Tập đoàn, quy chế thưởng do Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, giám đốc quy định the quy chế tài chính của Công ty, Tông Công ty"


Nội dung này không nằm ngoài việc mình đã nêu trên. Nếu nó được ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa ước tập thể thì nó sẽ là chi phí hợp lý hợp lệ. Mọi nguời không nên lầm giữa tháng lương thứ 13 với thưởng kết quả kinh doanh. Ngay bản thân từ tháng lương thứ 13 đã có tên nó là khoản mang tính chất tiền lương và điều này mang tính thông lệ quốc tế. Về nguyên tắc tránh trùng thuế vấn được áp dụng trong mọi trường hợp. Để làm rõ hơn mình giải thích thêm:

1. Cơ quan thuế không thể can thiệp vào các quyết định cổ tức của doanh nghiệp khi đanh thuế thu nhập doanh nghiệp rồi. Cụ thể khi doanh nghiệp làm ăn có lãi, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và chia phần lợi nhuận còn lại thì khoản này sẽ không chịu thuế thu nhập cá nhân nữa, do vậy nếu các bên được chia (Bằng cổ tức hoặc tiền mặt) sẽ hoàn toàn được sử dụng khoản này.
2. Nguyên tắc tính thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân của cơ quan thuế: Bằng tổng thu nhập có tính chất tiền lương phát sinh trong năm (Gồm cả tháng lương thứ 13, phụ cấp các loại)/12 tháng để ra thu nhập bình quan một tháng, trên cơ sở đó trừ giảm trừ gia cảnh và áp thuế suất. Điều này minh chứng tháng lương thứ 13 là khoản mang tính chất tiền lương.
3. Tháng lương thứ 13 mang tính chất thông lệ, có thể bằng 1 tháng lương, 2 tháng, 10 tháng tùy từng doanh nghiệp nhưng có mức tối thiểu quy định tại các văn bản luật lao động. Đây là khoản chi thực tế của doanh nghiệp và nằm trong tổng quỹ lương. Thực chất thu nhập bình quân tháng như mục 2 mới là thực chất tổng các khoản người thu nhập nhận được (phải chịu thuế TNCN) cho công việc đóng góp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cũng là khoản doanh nghiệp phải ghi nhận trong các tiêu chí về lương bổng.

Những cái này mang tính thông lệ quốc tế và được chi trả ngay cả khi doanh nghiệp không cần có lãi. Nói chung mợi người không nên nhầm lẫn nó với thưởng kết quả kinh doanh (Cổ tức), cả về hạch toán khoản này lẫn bản chất.

Thêm nữa là cần chứng minh việc hạch toán như thế nào, các bạn cứ mang chi tiết khoản mục các khoản trả công nhân viên và chi phí tiền lương ra trao đổi với cán bộ thuế, nó được ghi nhận trong đó trước khi trích vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu là khoản thưởng cổ tức, nó được trích từ kết quả kinh doanh sau thuế dĩ nhiên không quay lại được khgoanr mục chi phí của doanh nghiệp.

Theo Thìn thì việc thực hiện chính sách lương tháng thứ 13 nghe tên thấy không ổn, Tôi đi làm liên tục 12 tháng thôi mà, sao lại có vụ lãnh lương tháng thứ 13 chứ. Nói chính xác ra đây phải gọi là phần thưởng mới đúng, là ông chủ tôi thưởng cho tôi vì những đóng góp của tôi vào việc phát triển của Công ty ông ta. Nhưng nếu ghi trên chứng từ là tiền thưởng thì CB-Thuế, Họ cho rằng nếu là thưởng thì phải trích từ thu nhập sau thuế TNDN của Công ty mà trả hoặc lấy từ Qũy khen thưởng phúc lợi. Mà Quỹ này các DNTN, CTy TNHH nói chung là Kinh tế tư nhân thì làm gì có. LỢi nhuận họ làm ra là để chia cho Cổ đông góp vốn không hình thành hay trích lập cái Quỹ nghe rất kêu này. CB thuế sẽ loại trừ ra khỏi chi phí hợp lý khi tính thuế TNDN và thế là thuật ngữ tháng lương thứ 13 ra đời.
Vậy tháng lương thứ 13 được tính như thế nào. Các doanh nghiệp hay tính là cộng hết thu nhập 12 tháng trong năm lại và chia đều cho 12 tháng thế là ra tháng lương 13 phải trả.
Như vậy ít nhất tháng lương thứ 13 sẽ phải bằng lương bình quân các tháng trong năm và nhiếu nhất là bao nhiêu? Không ai biết được vậy CB thuế sẽ chấp nhận mức lương tháng thứ 13 là bao nhiêu? Cũng không ai biết.
Như vậy ông chủ muốn tính tháng lương thứ 13 nhiều lên cũng không dám tính bởi nếu mình tính nhiều quá lúc CB Thuế xuống thanh tra không chấp nhận thì sao.
Như vậy phải đọc kỹ các văn bản pháp luật xem việc tính toán này như thế nào.

Nhắc bạn Thìn là đây là khoản thực trả cho người lao động, ngoại trừ một số doanh nghiệp bé họ câu kết ký khống phiếu thanh toán lương. Cũng không sao lắm vì cơ quan thuế họ thu thuế TNCN. Ở nước ngoài họ trả bằng chuyển tài khoản cho người lao động thì không có nhập nhằng nữa. Sẽ ra sao nếu công ty trả cho người lao động mạ không cho họ hạc toán thành chi phí, lấy của họ 25% thuế nữa?
 
Sửa lần cuối:
valentine1011

valentine1011

Củ Gừng
5/5/10
561
9
18
Bộ tộc Maya
Mình có văn bản của tổng cục thuế, và hiện tại nó vẫn còn hiệu lực (mình đã kiểm tra về hiệu lực của nó):

BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
Số: 3734/TCT/ĐTNN Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2004
CÔNG VĂN
CỦA BỘ TÀI CHÍNH - TỔNG CỤC THUẾ SỐ 3734 TCT/ĐTNN NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2004 VỀ VIỆC HẠCH TOÁN KHOẢN LƯƠNG THÁNG THỨ 13 VÀO CHI PHÍ
Kính gửi: Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Trong thời gian vừa qua, Tổng cục Thuế nhận được công văn của nhiều đơn vị hỏi về việc hạch toán vào chi phí hợp lý đối với khoản chi lương tháng thứ 13. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Căn cứ theo quy định tại điểm 3.1b, Khoản 3, mục III, Phần B, Thông tư 128/2003/TT-BTC ngày 22/12/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) thì các khoản tiền lương chi trả thực tế cho người lao động (bao gồm cả lương tháng thứ 13 và các khoản tiền lương bổ sung) sẽ được hạch toán vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN, nếu các khoản tiền lương này được quy định cụ thể (bao gồm mức tiền và các điều kiện được hưởng) tại Hợp đồng lao động hoặc Thỏa ước lao động tập thể, được sự đồng ý của Hội đồng quản trị và được tính toán hợp lý (gắn liền và phù hợp với kết quả kinh doanh của đơn vị). Quy định này áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp nhà nước.
Hàng năm, cơ sở kinh doanh phải đăng ký với cơ quan thuế về tổng quỹ lương phải trả trong năm, căn cứ và phương pháp xây dựng tổng quỹ lương cùng với việc nộp tờ khai thuế TNDN.
Ngoài các khoản tiền lương được hạch toán vào chi phí đã nêu ở trên, các khoản tiền thưởng cho người lao động, doanh nghiệp không được tính vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN các khoản tiền thưởng này. Doanh nghiệp sử dụng khoản lợi nhuận sau thuế để thanh toán.
Căn cứ vào hướng dẫn trên đây, đề nghị các Cục thuế hướng dẫn và thực hiện thống nhất. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc đề nghị các Cục thuế có báo cáo cụ thể về Tổng cục Thuế để có hướng dẫn kịp thời.
Phạm Văn Huyến
(Đã ký)
 

Xem nhiều

Webketoan Zalo OA