Mạn đàm về phát triển kinh tế

  • Thread starter paulsteigel
  • Ngày gửi
paulsteigel

paulsteigel

Trung cấp
13/11/05
103
0
16
48
Hoà Bình
www.sfdp.net
Xin được trích bài viết của Tiến sĩ Vũ Minh Khương về tầm vóc dân tộc và phát triển kinh tế mà tôi thấy rất lý thú và có nhiều tâm huyết.

Tầm vóc Dân tộc và Công cuộc Phát triển

TS. Vũ Minh Khương

Hoa Kỳ, 05.01.2006

(Trích VietnamNet)



Đồ thị: tăng trưởng của Trung Quốc, Nam Dương, và Việt-Nam.
Tăng trưởng GDP bình quân đầu người sau khi vượt qua mức 200 USD: Việt Nam (1988-2004), Indonesia (1968-2004), Trung Quốc (1983-2004). Trục dọc biểu thị GDP bình quân đầu người; Trục ngang biểu thị thời gian sau khi đạt mức xấp xỉ 200USD/người (năm)


LGT (Vietnam Review): TS Vũ Minh Khương là một trí thức trẻ từ trong nước sang du học tại Hoa-Kỳ và đã tốt nghiệp bằng Tiến Sĩ về ngành Phát Triển Kinh Tế tại Đại Học Harvard vào mùa hè năm 2004 . Hiện nay ông đang dậy trong chương trình MBA tại Suffolk University ở Boston, Hoa-Kỳ.

Trong bài tham luận dưới đây TS Vũ Minh Khương nhận định rằng: "tiềm năng, lợi thế, thậm chí tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài chưa đủ để một quốc gia cất cánh…thành bại trong công cuộc phát triển của một quốc gia không tuỳ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên hay một vài lợi thế nguyên khai về nguồn nhân lực mà chủ yếu vào tầm vóc dân tộc.”

Theo TS Khương, tầm vóc dân tộc của một quốc gia được xác định bởi năm yếu tố sau đây: (1) Khát vọng dân tộc; (2) Tầm nhìn và tư duy; (3) Tâm huyết và tài năng của ba đội ngũ cột trụ là các nhà lãnh đạo, giới doanh nhân, và tầng lớp trí thức; (4) Tinh thần học hỏi và hợp tác; và (5) Đặc tính văn hóa.

Ông nhận định rằng tầm vóc dân tộc sẽ lớn vượt lên nếu có được một trong hai điều sau đây: (1) Mỗi người trong các đội ngũ cột trụ tìm cách “đốt lên một ngọn nến” thay vì “chê trách bóng tối,” và (2) Xã hội hình thành nên cơ chế và sự kỳ vọng để những người ưu tú nhất được thi thố hết tinh hoa và tâm lực của mình cho dân tộc.

Trong tình trạng của đất nước hiện nay, tầm vóc dân tộc khó vươn lên được vì nhiều yếu tố tiêu cực: đạo lý xã hội bị xói mòn, chiến lược phát triển của quốc gia mơ hồ, nạn tham nhũng hoành hành, tệ nạn xã hội bùng phát, các nhà lãnh đạo không biết nhìn xa trông rộng, mà chỉ có một tư duy lỗi thời là xã hội chủ nghĩa, nhân tài không được trọng dụng, chế độ giáo dục xuống cấp kéo theo tinh thần học hỏi.

TS Khương kết luận rằng nếu chúng ta tiếp tục cách thức phát triển như hiện nay, nền kinh tế nước ta sẽ có thể còn tiếp tục tăng trưởng khá cao trong vòng 10-15 năm nữa. Thế nhưng, với cách đi này, chúng ta sẽ không chỉ mất đi cơ hội đưa nền kinh tế chuyển sang giai đoạn cất cánh mà còn sẽ khó có thể tránh khỏi một cuộc khủng hoảng rất đắt giá khi nền kinh tế thế giới có biến động. Để công cuộc phát triển kinh tế vượt lên, những nỗ lực đột phá nhằm nâng cao tầm vóc dân tộc là một đòi hỏi vô cùng bức thiết và có ý nghĩa sống còn.

***

Vào năm 1960, Philippines được được coi là có lợi thế hơn hẳn so với Hàn Quốc trong công cuộc phát triển: Mức GDP bình quân đầu người của Philippines là 257USD cao hơn Hàn Quốc (156 USD); Philippines khá phong phú về tài nguyên thiên nhiên (gỗ, dầu mỏ, nikel, bạc, vàng, đồng) trong khi Hàn Quốc hầu như không có; người Philippines và Hàn Quốc có tỷ lệ dân số biết chữ khá cao và gần ngang nhau (trên 80%) nhưng người Philippines giỏi ngoại ngữ và có khả năng hoà nhập tốt hơn với văn hoá phương tây.

Thế nhưng, chỉ trong vòng bốn thập kỷ, hai quốc gia đã đi tới hai vị thế phát triển khác biệt căn bản: Hàn Quốc có mức GDP đầu người cao hơn 10 lần so với Philippines và trở thành một trong những cường quốc công nghiệp hàng đầu thế giới, trong khi Philippines vẫn ở nhóm các nước có thu nhập khá thấp, với mức thu nhập GDP/người khoảng 1.000 USD (năm 2004), và đất nước này vẫn phải dựa vào xuất khẩu lao động phổ thông như một nguồn thu nhập quan trọng (năm 2004, Philippines xuất khẩu gần 1 triệu lao động, đưa tổng số lao động xuất khẩu lên trên 8 triệu người, với tổng số tiền gửi về khoảng 8,5 tỷ USD[1]).

Indonesia là một quốc gia giàu tài nguyên, đặc biệt là dầu mỏ. Sau khi nắm quyền lực vào năm 1966, chính quyền Suharto đã tiến hành nhiều biện pháp mạnh mẽ để ổn định chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế với những quyết sách lớn về hội nhập quốc tế và thu hút đầu tư. Kết quả là, Indonesia đã đạt được những thành công ấn tượng trong phát triển kinh tế và giảm nghèo đói; tăng trưởng GDP trong một thời gian dài 30 năm, từ 1967 đến 1996, đạt mức bình quân 7%/năm, trong đó có nhiều năm ở mức trên 8%. Thế nhưng, quá trình tăng trưởng không đi cùng với sự phát triển về chất của thể chế quản lý; mà trái lại nạn tham nhũng ngày càng gia tăng và sự yếu kém của bộ máy quản lí ngày càng bộc lộ rõ; khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra vào năm 1997, nền kinh tế Indonesia đã nhanh chóng suy sụp và những khuyết tật đã tích tụ nhiều năm của nó đã để lại những di hại nghiêm trọng cản trở quá trình hồi phục và phát triển của nền kinh tế này.

Bài học của Philippines và Indonesia cho thấy rằng tiềm năng, lợi thế, thậm chí tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong một thời gian dài chưa đủ để một quốc gia cất cánh, và do vậy, tương lai phồn vinh của họ vẫn còn là một ước vọng xa vời.

Tầm vóc dân tộc: nền tảng cho công cuộc phát triển của một quốc gia

Kinh nghiệm phát triển của các nước trong nhiều thập kỷ qua cho thấy thành bại trong công cuộc phát triển của một quốc gia không tuỳ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên hay một vài lợi thế nguyên khai về nguồn nhân lực mà chủ yếu vào tầm vóc dân tộc.

Tầm vóc dân tộc của một quốc gia được xác định bởi tổng thành của năm định tố với mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với nhau sau đây:

1) Khát vọng dân tộc

Khát vọng dân tộc dựa trên nền tảng của lòng yêu nước, tính tự tôn dân tộc, và ý thức trách nhiệm với thế hệ tương lai. Tầm vóc của một dân tộc sẽ lớn lên vượt bậc nếu họ hun đúc một khát vọng mãnh liệt vươn tới một vị thế xứng đáng trong cộng đồng thế giới

Khát vọng vươn lên của một dân tộc có thể chỉ còn leo lét nếu niềm tin vào đạo lý xã hội bị xói mòn, chiến lược phát triển của quốc gia mơ hồ, nạn tham nhũng hoành hành và tệ nạn xã hội bùng phát. Trong tình cảnh đó, người dân và doanh nghiệp sẽ không còn cảm nhận thiêng liêng về ý thức dân tộc và thể diện quốc gia để rồi dễ dãi sa vào các phương cách với kiếm tiền chụp giật và vụ lợi ngắn hạn.

2) Tầm nhìn và Tư duy

Nếu khát vọng dân tộc là nguồn năng lượng tiềm tàng thì tầm nhìn và tư duy là hệ thống dẫn đường và bánh lái cho con tàu dân tộc đi đến phồn vinh. Tầm nhìn hạn hẹp và tư duy xơ cứng, giáo điều sớm muộn sẽ dẫn đất nước đến trì trệ, khủng hoảng cho dù khát vọng dân tộc có mãnh liệt đến đâu.

Tầm nhìn và tư duy có mối gắn kết đặc biệt. Tư duy khoa học và thực tiễn tạo nên một tầm nhìn sâu rộng và chính xác về thời đại và thế giới. Ngược lại, tầm nhìn thấu đáo về thời đại và thế giới sẽ thúc đẩy không ngừng sự đổi mới và mài sắc tư duy.

Một dân tộc sẽ bị hạn hẹp về tầm nhìn và thiển cận trong suy tính nếu họ cho rằng thế giới đầy những hiểm hoạ và khuyết tật. Với họ, một khi gặp phải khó khăn trắc trở, họ sẽ nhanh chóng qui kết đó là do nguyên nhân khách quan hoặc ai đó đang có âm mưu chống phá mình.

Một dân tộc sẽ có tầm nhìn xa trông rộng nếu họ cho rằng thế giới có biết bao cơ hội và tinh hoa mà họ phải dốc sức tìm kiếm, nắm bắt, và học hỏi. Với họ, một khi gặp phải khó khăn thất bại, họ sẽ nghiêm khắc tìm ra phần lỗi của chính họ, dù là rất nhỏ, để suy xét thấu đáo và rút ra bài học giá trị cho những bước đi tiếp theo.

3) Tâm huyết và tài năng của những đội ngũ trụ cột

Ba đội ngũ trụ cột cho công cuộc phát triển của một quốc gia là các nhà lãnh đạo, giới doanh nhân và tầng lớp trí thức.

Khát vọng, tầm nhìn và tư duy của ba đội ngũ này có ảnh hưởng quyết định đến khát vọng, tầm nhìn và tư duy của dân tộc. Trong mỗi đội ngũ này, sự đóng góp có tính đột phá của cá nhân có thể tạo nên những bước nhảy vọt cho công cuộc phát triển. Nhà chính trị Đặng Tiểu Bình, với sự đột phá về tầm nhìn và tư duy, đã đưa Trung Quốc thoát khỏi vòng tối tăm mê muội để trở thành một quốc gia có tốc độ đổi thay kỳ vĩ, làm cả thế giới kinh ngạc và ngưỡng mộ.

Các doanh nhân, như Chong Ju-yung (sáng lập hãng Hyundai) và Lee Byung-chul (sáng lập hãng Samsung), với ý chí kinh doanh phi thường và tinh thần dân tộc cao cả, đã góp phần đưa Hàn Quốc nhanh chóng trở thành một cường quốc công nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực đóng tàu và điện tử. Học giả Fukuzawa Yukuchi thời kỳ Minh Trị của Nhật Bản, đã có những đóng góp lớn lao cho công cuộc cải cách, thông qua nỗ lực khai sáng dân trí và khích lệ người dân nắm bắt đổi thay, tiếp thu tinh hoa thời đại.

Tầm vóc một dân tộc sẽ lớn vượt lên nếu có được một trong hai điều sau đây:

+ Mỗi người trong các đội ngũ trụ cột tìm cách “đốt lên một ngọn nến” thay vì “chê trách bóng tối” như ý tưởng của Khổng Tử.

+ Xã hội hình thành nên cơ chế và sự kỳ vọng để những người ưu tú nhất trong mỗi đội ngũ trụ cột nói trên được thi thố hết tinh hoa và tâm lực của mình cho dân tộc.

4) Tinh thần học hỏi và hợp tác

Lợi thế lớn nhất của các quốc gia đi sau không phải là lao động rẻ hay tài nguyên thiên nhiên dồi dào mà là tinh thần học hỏi và hợp tác. Tinh thần học hỏi và hợp tác thường nằm giữa hai thái cực trái ngược.

Ở một thái cực, người ta dốc sức nghiên cứu vấn đề quan tâm để hiểu thấu đáo đến từng chi tiết nhỏ; họ biết rõ đâu là những điều hay nhất của thế giới trong mỗi lĩnh vực để đưa về áp dụng; họ tìm kiếm và trân trọng cái hay của đối tác để học hỏi và tăng cường hợp tác tạo nên giá trị mới.

Ở một thái cực khác, người ta luôn nghĩ là mình đã biết cả rồi và cho rằng mô hình ở nước ngoài khác đặc thù nước mình nên ít quan tâm tìm hiểu; ở thái cực này, người ta cũng thường nhanh chóng tìm ra cái dở của đối tác và đồng đội để biện hộ cho sự thiếu nhiệt tâm trong học hỏi và hợp tác của mình. Tầm vóc của một dân tộc sẽ lớn hơn nhiều nếu phẩm chất học hỏi và hợp tác của họ chuyển được từ thái cực thứ hai sang thái cực thứ nhất.

5) Đặc tính văn hoá

Đặc tính văn hoá có tác động quan trọng đến phát triển. Một dân tộc coi nhẹ nghĩa khí và nguyên tắc đạo đức dễ rơi vào vòng xoáy tham nhũng một khi bộ máy công quyền yếu kém về hiệu lực và phẩm chất.

Philippines là một ví dụ. Vào năm 1938, tổng thống Quezon đã từng quản ngại “…cảm nhận của người Philippines về sự chân chính thường bị lu mờ bởi sự cầu lợi cá nhân. Chuẩn mực cử xử của họ thường dựa trên sự được việc hơn là nguyên tắc…[2]”; do vậy, Philippines trong những thâp kỷ 60, 70, và 80 đã có những cơ hội vô cùng quí giá cho phát triển, nhưng sự yếu kém của chính quyền đã tạo nên tệ nạn tham nhũng khủng khiếp mà nghiêm trọng nhất là trong giới cảnh sát và toà án [3]. Kết cục là, một số lượng lớn người Philippines đã cố tìm đường ra nước ngoài theo con đường xuất khẩu lao động để thoát khỏi bức xúc và nghèo khó mà nghề nghiệp của họ chủ yếu là lao công giúp việc.

Vì vậy, một dân tộc muốn lớn mạnh phải tôn thờ lòng nghĩa khí, trân trọng sự chính trực, và không ngừng củng cố đạo lý và các nguyên tắc đạo đức của xã hội.

Công cuộc phát triển của Việt Nam: những hiểm họa phía trước và sự cấp bách phải nâng cao tầm vóc dân tộc

Công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta, khởi đầu tư năm 1986, đã đạt những thành quả rất ấn tượng trong tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Mức tăng GDP bình quân trong giai đoạn 1987-2004 (17 năm) đạt trên 7%. Mức tăng GDP năm 2005 còn cao hơn, ước tính đạt trên 8%. Thế nhưng triển vọng phía trước không hẳn lạc quan nếu chúng ta xem xét kỹ lưỡng bài học của Indonesia.

Bài học Indonesia:

Hình vẽ trên đây chỉ ra tuyến trình tăng trưởng của ba nước, Indonesia, Trung Quốc, và Việt Nam, kể từ khi mỗi nước đạt mức GDP/người xấp xỉ 200 USD. Indonesia đạt mức GDP/người xấp xỉ 200USD vào năm 1967 và duy trì được mức tăng trưởng GDP/người cao trong vòng 30 năm (cho tới khi bị suy sụp vào năm 1998). Trung Quốc đạt mức GDP/người xấp xỉ 200 USD vào năm 1982 và có tuyến trình tăng trưởng cất cánh với tốc độ cao hơn hẳn Indonesia và giống với tuyến trình tăng trưởng của các nền kinh tế thần kỳ (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, và Singapore). Việt Nam đạt mức GDP/người xấp xỉ 200 USD vào năm 1987 và tuyến trình tăng trưởng gần như trùng khít với con đường của Indonesia.

Quá trình tăng trưởng của Việt Nam và Indonesia không chỉ tương tự về tuyến trình tăng trưởng mà còn rất giống nhau trên mấy đặc thù sau:

Thứ nhất, động lực tăng trưởng của hai nước dựa nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên (đặc biệt là dầu mỏ) và viện trợ quốc tế. Nguồn thu từ dầu khí khai thác chiếm bình quân khoảng 11% của tổng thu nhập quốc dân của Indonesia trong giai đoạn 1968-1997; con số này của Việt Nam năm 2003 là trên 8%. Viện trợ quốc tế chiếm bình quân khoảng khoảng 10% tổng đầu tư của Indonesia (giai đoạn 1968-1997); con số này của Việt Nam (giai đoạn 1988-2004) là 15% tổng đầu tư, trong khi của Trung Quốc giai đoạn (1983-2004) chỉ vào khoảng 1%.

Thứ hai, Việt Nam và Indonesia là hai nước có mức tham nhũng nghiêm trọng nhất ở Đông Á (trên cả mức độ của Philippines). Theo xếp hạng của Tổ Chức Minh Bạch Quốc tế về mức độ tham nhũng, Việt Nam xếp hạng 74 năm 1998 (trong tổng số 85 quốc gia) và 102 năm 2004 (trong tổng số 145 quốc gia); Indonesia xếp hạng 80 năm 1998 và 133 năm 2004 [4]

Thứ ba, Việt Nam và Indonesia đều tổn thất rất nhiều nguồn lực vào nỗ lực bao cấp và bảo hộ một số dự án và ngành công nghiệp. Với Indonesia, đó là ô tô, hoá chất, và chế tạo máy bay. Với Việt Nam, đó là đường, xi măng, ô tô, đóng tàu.

Nâng cao tầm vóc dân tộc: một đòi hỏi cấp bách

Nếu chúng ta tiếp tục cách thức phát triển như hiện nay, nền kinh tế nước ta sẽ có thể còn tiếp tục tăng trưởng khá cao trong vòng 10-15 năm nữa, tương tự như tuyến trình tăng trưởng của Indonesia trong giai đoạn 1986-1997. Thế nhưng, với cách đi này, chúng ta sẽ không chỉ mất đi cơ hội đưa nền kinh tế nước ta chuyển sang giai đoạn cất cánh mà còn sẽ khó có thể tránh khỏi một kết cục rất đắt giá như Indonesia đã gặp phải vào năm 1997-1998, khi nền kinh tế thế giới có biến động.

Để công cuộc phát triển kinh tế của nước ta vượt lên và tránh được những hiểm hoạ tương lai, những nỗ lực đột phá nhằm nâng cao tầm vóc dân tộc là một đòi hỏi vô cùng bức thiết và có ý nghĩa sống còn đối với sự thành bại của sự nghiệp đưa nước ta đến phồn vinh.

* Các số liệu kinh tế trong bài lấy từ World Development Indicators (World Bank) nếu nguồn khác không được chỉ ra.

[1] http://www.poea.gov.ph/AR2004/AnnualReports/ar2004.pdf

[2] Theo Theodore Friend, “Rebuilding A Nation”, The Washington Institute Press, 1987 (trang 79)

[3] http://www.cbo.gov/ftpdocs/43xx/doc4306/1997doc10-Entire.pdf

[4] (http://www.transparency.org/publications/annual_report).
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
TAT

TAT

Thành viên Tình Nguyện
6/8/05
1,016
11
0
44
Làng Cà
Phát triển kinh tế ngoài những yếu tố như con người, điều kiện chính trị, tôn giáo ... còn phải kể đến phương pháp, đường lối phát triển kinh tế.
Trong quá trình phát triển kinh tế phải kể đến quá trình tạo ra sản phẩm, trao đổi hàng hoá ...
Ở đây TC xin lấy một khía cạnh của việc tạo ra sản phẩm để nói về phát triển kinh tế.
Phần 1:
Thủa xa xưa khi mới bắt đầu tạo ra sản phẩm lưu thông trên thị trường, người sản xuất tính đến yếu tố phù hợp của sản phẩm. Sản phẩm làm ra phải được sử dụng đúng mục đích, đúng với nhu cầu của người sử dụng,... rất đến tình trạng sản phẩm làm ra được chăm chút từng li từng tí một, nó thoả mãn mọi yêu cầu của người sử dụng - ngoại trừ yếu tố: thời gian và giá cả.
Đến những năm cuối của thế kỷ 17, khi cách mạng công nghiệp Anh nổ ra phát triển và lan đi khắp châu Âu. Quá trình sản xuất có sự thay đổi: người ta đưa phương tiện, máy móc vào sản xuất... Sản phẩm làm ra hàng loạt, giá thành hạ ... và ...
Sản phẩm làm ra theo 2 hướng: Thủ công và Máy móc.
Thủ công thì sao? còn máy móc thì sao? đâu là ưu điểm? đâu là nhược điểm? Sản xuất theo phương thức nào tối ưu hơn? xin thưa rằng: Nếu kết hợp được 2 phương thức trên là tốt nhất. Nhưng quả thật là rất khó để có thể làm được điều này.
Vào những năm 40 của thế kỷ 20, tại nước Nhật sau thời kỳ hậu chiến nhu cầu tái thiết nền kinh tế ...
 
TAT

TAT

Thành viên Tình Nguyện
6/8/05
1,016
11
0
44
Làng Cà
Phần 2: LEAN - thực hành sản xuất hiệu quả, tiết kiệm.

Phần 2:
LEAN - Thực hành sản xuất hiệu quả, tiết kiệm.
Sau thế chiến II, nước Nhật bước vào công cuộc tái thiết đất nước. Họ phải làm gì trong khi đất nước họ thiếu thốn về đủ thứ: con người, nguyên vật liệu, tài nguyên và nhất là tình hình chính trị không ổn định.
Doanh nghiệp đầu tiên tại Nhật Bản đã đưa ra phương thức sản xuất kinh doanh mới là Toyota: Toyota Production System.
Hệ thống này xây dựng dựa trên sự tiết kiệm tối đa trong sản xuất, giảm thiểu hàng tồn kho, cắt giảm chi phí không cần thiết, nâng cao hiệu quả sản xuất của trang thiết bị máy móc. Sau khi áp dụng hệ thống, Toyota không ngừng phát triển tạo thành tiền đề cho các đơn vị khác của Nhật cải tiến và phát triển. đến lúc này Toyota Production System không còn là của riêng Toyota nữa mà nó đã trở thành LEAN Production.
LEAN: phương pháp sản xuất tiết kiệm và hiệu quả.
5 nguyên tắc chính của LEAN:
1. Giá trị - Value: Hãy xác định giá trị của Doanh nghiệp dựa trên quan điểm của Khách hàng
2. Dòng giá trị - Value flow: xác định quá trình tạo ra sản phẩm dịch vụ(thiết kế, đặt hàng, giao hàng …). Loại bỏ những bước không tạo ra giá trị.
3. Dòng chảy – Flow: Hãy kết nối tất cả các bước tạo ra giá trị để sản phẩm/dịch vụ cung cấp ngay cho khách hàng mà không cần phải chờ đợi, lưu kho hay đi lòng vòng.
4. Lực kéo – Pull: Hãy sản xuất chỉ dựa vào yêu cầu của khách hàng, đúng sản phẩm và đúng thời hạn.
5. Hoàn thiện – Perfection: Rà soát lại toàn bộ quá trình tạo ra sản phẩm, làm cho hoạt động nhanh hơn, chính xác hơn theo yêu cầu của Khách hàng. Đặc biệt quan trọng là nhận thức của CBCNV.
Ngoài ra LEAN còn hướng tới việc kiểm soát sự lãng phí trong sản xuất kinh doanh. 7 loại lãng phí mà LEAN đưa ra gồm có:
1.Sản xuất quá: Sản xuất nhiều quá, sớm quá do thông tin kém, sinh tồn kho.
2.Sai hỏng: Các sai lỗi liên quan tới giấy tờ, chất lượng sản phẩm kém, giao hàng chậm.
3.Tồn kho quá nhiều: Tồn kho nhiều, thông tin chậm, chi phí cao, phục vụ khách hàng kém.
4.Quá trình sản xuất không thích hợp: Do sử dụng công cụ, qui trình, hệ thống quá phức tạp, không thích hợp.
5.Vận tải quá: Công nhân phải di chuyển nhiều, thông tin hoặc vật tư phải giao nhận xa nơi sản xuất.
6.Chờ đợi: Người phải chờ việc, thông tin, vật tư -> thời gian sản xuất kéo dài.
7.Thái độ lao động không phù hợp: Tổ chức sản xuất kém, môi trường mất đoàn kết, quá trình sản xuất lòng vòng, tạo ra mất mát.
Đó chính là một số quan điểm chính trong quá trình xây dựng, hoạch định và tổ chức sản xuất theo LEAN.
Thành công của LEAN?
 
TAT

TAT

Thành viên Tình Nguyện
6/8/05
1,016
11
0
44
Làng Cà
Thành công của LEAN?

Thành công của LEAN?
Vậy đâu là thành công của LEAN? Trên thế thới có bao nhiêu quốc gia, bao nhiêu tập đoàn kinh tế, tập đoàn đa quốc gia áp dụng LEAN? Và bao nhiêu DN đã thành công với LEAN?
Đứng trên phương diện quốc gia: Nhật Bản, Anh, Mỹ và Trung Quốc - những cwongf quốc kinh tế trên thế giới.
Tập đoàn kinh tế: Toyota, Boeing, Tesco – UK, GFS - Bồ đào nha, và rất nhiều tập đoàn khác.
Có một điểm mà xưa nay ai cung biết nhưng nguyên nhân, nguồn gốc của nó ít nhiều chưa được đề cập đến đó là: Tại sao hàng hoá của Trung Quốc lại phổ biến đến như vậy? Giá cả lại cạnh tranh đến như vậy? là chủng loại phong phú? mẫu mã đa dạng?
Đó chính là: Trung Quốc là một trong những quốc gia áp dụng hiệu quả nhất học thuyết LEAN.
Khởi nguồn của LEAN từ những năm 40 của thế kỷ trước, vậy tại sao đến tận bây giừo mới được đề cập đến? và tại sao đến tận bây giừo chúng ta mới biết? không hẳn vì hiện nay xu hướng tiết kiệm nguồn nhiên liệu ngày càng khan hiếm và cạn kiệt, cũng không hẳn vì máy móc hiện bị ngày càng hiện đại, và cũng không hẳn vì nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao… Mà nó xuất phát từ cuộc chiến kinh tế toàn cầu.
Thời đại của internet, của WTO, của công nghệ … sức cạnh tranh của hàng hoá khốc liệt không kém thế chiến I, hay II.
Đầu những năm 80, chính phủ Trung Quốc cải cách nền kinh tế. Họ đông dân, nguồn nhiên liệu, vật liệu dồi dào… tại sao họ lại phải sản xuất tiết kiệm? đó chính là tầm nhìn chiến lược của người Hoa. Và học thuyết mà họ áp dụng lại của chính người hàng xóm, mà lâu nay họ vẫn coi là một nước nhỏ bé… cuối cùng họ thành công.!
Như đã nói ở trên, hàng hoá của người TQ có mặt khắp nơi trên thế giới. Trước nguy cơ không sao lường trước được khi người TQ ra nhập WTO, hàng hoá của người Hoa: ai sẽ kiểm soát? Làm thế nào để có thể cạnh tranh với người Hoa? v.v.. và v..v….
Đầu năm 2006 tại Munich nước Đức đã diễn ra hội thảo của các nước phương Tây về LEAN. Chủ đề của hội thảo là:
LEAN thành công ở TQ thì cũng là LEAN sẽ phương thức cạnh tranh với người TQ.
Đối với VN chúng ta thì sao? Khi nào chúng ta áp dụng LEAN? Câu hỏi còn bỏ ngỏ!
 
1

112

Trung cấp
2/10/03
132
0
16
To tranchan79
Anh có thể nói rõ hơn về học thuyết LEAN được không?
 
TAT

TAT

Thành viên Tình Nguyện
6/8/05
1,016
11
0
44
Làng Cà
112 nói:
To tranchan79
Anh có thể nói rõ hơn về học thuyết LEAN được không?
Học thuyết LEAN thì có vẻ hơi quá một chút.
Chính xác tên gọi của LEAN là: LEAN - Phương thức thực hành sản xuất hiệu quả, tiết kiệm.
LEAN là do người phương tây khi áp dụng Toyota Production System đặt ra(LEAN có nghĩa là thịt thăn - phần thịt rất ngon của con bò con lợn nó có thể chế biến rất nhiều món ăn, phục vụ cho rất nhiều đối tượng, không rườm rà).
LEAN chú trọng tới những yếu tố chính dưới đây:
Tồn kho và Hiệu xuất tối đa của thiết bị.
Tồn kho: LEAN xác định Tồn kho chính là che dấu các vấn đề/ lãng phí.
Hiệu xuất tối đa của thiết bị máy móc:
OEE(overall equipment effectiveness)= Thời gian sẵn sàng * Tốc độ hoạt động * Năng xuất.
 

Xem nhiều

Webketoan Zalo OA