Cùng đọc và suy ngẫm

  • Thread starter Nguyen hai yen
  • Ngày gửi
N

Nguyen hai yen

Guest
21/12/05
175
0
0
46
ha noi
CÂU CHUYỆN BÁT MÌ
Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31-12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho nên đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới.
Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ. Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phác, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân. Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào.
Đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.
- Xin mời ngồi!
Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:
- Có thể... cho tôi một… bát mì được không?
Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.
- Đương nhiên… đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.
Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:
- Cho một bát mì.
Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn vừa trò chuyện khe khẽ với nhau.
- Ngon quá - thằng anh nói.
- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.
Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen: “Thật là ngon! Cám ơn!” rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.
- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.
Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31-12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.
- Có thể… cho tôi một… bát mì được không?
- Đương nhiên… đương nhiên, mời ngồi!
Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:
- Cho một bát mì.
Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:
- Vâng, một bát mì!
Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:
- Này ông, mình nấu cho họ ba bát mì được không?
- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.
Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: “Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!”.
Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.
- Thơm quá! - Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá! - Sang năm nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!
Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.
- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!
Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu. Đến ngày 31-12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện.
Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả. Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là “200đ/bát mì” và thay vào đó giá của năm ngoái “150đ/bát mì”. Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy “Đã đặt chỗ”.
Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến. Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đều đã lớn rất nhiều.
- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.
Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:
- Làm ơn nấu cho chúng tôi… hai bát mì được không?
- Được chứ, mời ngồi bên này!
Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy “Đã đặt chỗ” đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì”.
- Vâng, hai bát mì. Có ngay.
Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi. Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.
- Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!
- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?
- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.
- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.
Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.
- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay mẹ đã nộp xong cả rồi!
- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?
- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.
- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.
- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần, chúng ta phải cố gắng lên!
- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!
- Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.
- Có thật thế không? Sau đó ra sao?
- Thầy giáo ra đề bài: “Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?”, Tiểu Thuần đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: “Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc”. Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa. Lại còn: “Vào tối 31-12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn”. Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: “Cố gắng lên! Chúc hạnh phúc! Cám ơn!”.
Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.
- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.
- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?
- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: “Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phải đi chợ nấu cơm nên mỗi khi tham gian hoạt động đoàn thể gì đó nó đều phải vội vã về nhà, điều này gây không ít phiền toái cho mọi người. Vừa rồi khi em con đọc bài văn thì trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ nhưng đó là sự xấu hổ chân chính. Mấy năm nay mẹ chỉ gọi một bát mì, đó là cả một sự dũng cảm. Anh em chúng con không bao giờ quên được… Anh em con tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn. Cuối cùng con nhờ các thầy cô quan tâm giúp đỡ cho em con”.
Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về. Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:
- Cám ơn! Chúc mừng năm mới!
Lại một năm nữa trôi qua. Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy “Đã đặt chỗ” nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện. Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.
“Việc này có ý nghĩa như thế nào?”. Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ.
Bàn số hai “cũ” trở thành “cái bàn hạnh phúc”, mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này. Rồi rất nhiều lần 31-12 đã đi qua. Lại một ngày 31-12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay.
Hơn 9g30 tối, trước tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người. Mọi người rất vui vẻ. Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai.
Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.
Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại.
Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên. Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:
- Làm ơn… làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?
Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp bắp nói:
- Các vị… các vị là…
Một trong hai thanh niên tiếp lời:
- Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lức để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô. Cuối cùng, ý định nung nấy từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.
Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vã nhả ra, đứng dậy nói:
- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao? Mau tiếp khách đi chứ! Mau lên!
Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:
- Ồ phải… Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.
Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:
- Có ngay. Ba bát mì.
- o O o -
Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm.
Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng: chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi. Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt, nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang lại sự ấm áp cho mọi người.
Câu chuyện này xuất hiện làm xúc động không ít độc giả Nhật Bản. Có người nhận xét rằng: "Đọc xong câu chuyện này không ai không rơi nước mắt". Đây chỉ là lời nhận xét mang tính phóng đại một chút nhưng nó không phải là không thực tế. Quả thật, nhiều người đọc xong câu chuyện đã phải rơi lệ, chính sự quan tâm chân thành và lòng nhân hậu trong câu chuyện đã làm cho họ phải xúc động.
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
Dungphan

Dungphan

Trung cấp
6/7/05
82
1
0
41
HCM
Ấy ui, bài này đã được post lên diễn đàn rùi mừ:p
 
H

H5N1

Guest
10/1/06
13
0
0
54
Ninh Bình
Đúng vậy con người ta ai chẳng có lúc này lúc kia. Nhiều khi một cái mà mình tưởng là rất đơn giản nhưng đó lại là nghị lực để cho người khác vượt qua khó khăn của mình.
 
Dungphan

Dungphan

Trung cấp
6/7/05
82
1
0
41
HCM
Cuộc trở về kì lạ.

Năm 2000, Lâm Thị Thanh Huyền sang Australia du học theo diện học bổng, thế nhưng liên tiếp những tai ương đã khiến cô mất trí nhớ và phiêu bạt khắp nơi. Gia đình đau đớn bởi tưởng đã mất con, thế nhưng thật kỳ lạ, 4 năm sau Huyền đã tìm được bố mẹ nhờ một sự trùng hợp ngẫu nhiên…

Lâm Thị Thanh Huyền là con gái út của ông Lâm Văn Bảng, người đã lập bảo tàng nhà tù Phú Quốc ngay tại gia đình ở thôn Nam Quất, xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, Hà Tây. Theo lời kể của ông Bảng, trong số mấy người con của ông, cô út Lâm Thị Thanh Huyền là người thông minh nhất. Hồi tuổi mới lên ba, chưa ai dạy chữ, thế mà nghe các anh, các chị học thuộc lòng chỉ một hai lần là Huyền đã đọc lại vanh vách những bài học của anh chị mình. Ông quyết tâm dồn tất cả mọi thứ cho cô những mong con mình phát huy được hết khả năng thiên phú.

Sự kỳ vọng của ông và mọi người trong gia đình đã không uổng phí, Huyền năm nào cũng là một học sinh xuất sắc được thầy cô và bạn bè mến yêu, nể phục. Tốt nghiệp cấp III năm 1997, Huyền trúng tuyển vào Đại học Giao thông vận tải với số điểm cao chót vót. Học hết năm thứ nhất ở ĐH Giao thông vận tải, thấy mình không hợp, cô quyết định chuyển trường. Huyền thi đậu Khoa Toán tin của ĐH Quốc gia Hà Nội mà chẳng khó khăn gì. Sự tự hào của gia đình ông Bảng được nhân lên gấp bội khi đang là sinh viên năm thứ 2, Huyền được nhà trường cử đi du học nước ngoài.

Trước ngày sang Australia học, ông Bảng đã ngồi suốt tối dặn dò con gái yêu những điều cần thiết khi một mình ở nơi xứ lạ. Ông Bảng tặng con một cuốn sách đã được gói ghém rất cẩn thận. Đó là cuốn Nhân Quả, ông mua từ năm 1995 và thuộc lòng từng câu chữ. Bởi là sách quý nên ông tỉ mẩn bọc bằng mấy lớp bìa, ngoài cùng là lớp giấy nilon phẳng phiu, sáng bóng.

Đưa cuốn sách ấy cho con, ông rưng rưng bảo: "Ba chẳng có quà gì cho con trước lúc đi xa cả, chỉ có cuốn sách này thôi. Đây là cuốn sách mà ba thích nhất, sang đó, cứ khi nào khó khăn nhất, con hãy đọc nó, nó sẽ chỉ cho con cách vượt qua khó khăn ấy con ạ!". Nhận cuốn sách từ tay người cha già cả đời lam lũ, Huyền cũng nước mắt nghẹn ngào.

Ông Bảng có thói quen hễ mua được cuốn sách nào việc đầu tiên ông ghi ngay tên, địa chỉ của mình lên đó. Cuốn Nhân Quả cũng vậy, tên ông, số điện thoại gia đình, ông đã nắn nót ghi ngay gáy trước. Thế nhưng, chẳng hiểu tại sao, khác với những cuốn sách khác, cuốn sách ấy ông lại ghi tên mình theo kiểu viết không có dấu (Bảng thành Bang) và chỉ ghi mỗi số điện thoại nhà mình chứ không ghi địa chỉ rõ ràng.

Huyền sang Australia học, cô vẫn đều đặn viết thư về cho gia đình. Cuốn sách người cha ở quê tặng, cô cất cẩn thận trong hòm và thỉnh thoảng vẫn lấy ra đọc mỗi khi buồn, mỗi khi "gặp khó khăn" như lời cha cô dặn trước lúc xa nhà. Cạnh nơi Huyền ở có một bà người Pháp bởi không có con nên thấy Huyền hiền lành thì đem lòng quý mến. Bà nhận Huyền làm con nuôi và hai người thường xuyên qua lại chăm sóc nhau như ruột thịt.

Học được gần một năm thì tai họa ập xuống. Huyền bị ốm nặng. Mấy ngày liền nằm liệt giường bởi những cơn sốt ly bì hành hạ. Lâu không thấy cô con nuôi ngoan hiền ghé qua, bà mẹ nuôi người Pháp đã tất tưởi đến thăm. Thấy Huyền sốt cao, bà vội vàng gọi bác sĩ và lập tức đưa Huyền nhập viện. Tại viện, các bác sĩ đã chẩn đoán, Huyền bị viêm não đã biến chứng, nếu không đưa sang một bệnh viện tốt nhất của Mỹ thì tính mạng cô sẽ vô cùng nguy hiểm.

Vậy là, từ viện, Huyền đã được bà mẹ nuôi vội vàng làm thủ tục để cấp tốc sang Mỹ chạy chữa. Đến Mỹ, phẫu thuật xong và sau gần một tháng điều trị, bệnh tình của Huyền đã có dấu hiệu thuyên giảm. Sốt ruột vì việc học, dù sức khỏe vẫn chưa phục hồi hoàn toàn nhưng hai mẹ con vẫn cập rập làm thủ tục để quay lại Australia.

Họa vô đơn chí, chiều ấy, trên đường sân bay, một tai họa kinh hoàng khác đã ập xuống, chiếc taxi chở hai mẹ con đã va vào xe tải, nát bươm. Lần tai nạn ấy đã khiến mẹ nuôi Huyền thiệt mạng ngay tại chỗ, còn Huyền thì bất tỉnh nhân sự và được mọi người đưa trở lại bệnh viện. Nằm miên man suốt mấy ngày trời, khi tỉnh dậy, Huyền ú ớ khi không còn nhận ra chính mình nữa. Cô đã mất trí hoàn toàn. Cô không biết mình là ai, không biết tại sao lại ở nơi này…

Sau tai nạn kinh hoàng trên, mọi đồ đạc của Huyền đã bị mất hết, kể cả giấy tờ tùy thân. Ra viện, không biết đi đâu về đâu, Huyền đành ở lại Mỹ và kiếm sống bằng nghề rửa vỏ chai, lọ trong một nhà hàng ở New York.

Trong cuốn sách Nhân Quả mà cha cô tặng, có nhắc nhiều đến chuyện ở hiền gặp lành. Và điều ấy đã đúng với Huyền. Thấy Huyền chăm chỉ lại ở trong một cảnh ngộ rất đỗi bi thương, một phụ nữ lái buôn người Trung Quốc đã đón Huyền lên tàu chở hàng của bà, nhận Huyền làm con nuôi và Huyền giúp bà những việc vặt hàng ngày.

Lúc này, Huyền vẫn không nhớ một chút gì về quá khứ của mình. Cô chỉ thấy văng vẳng trong đầu mình mấy câu "Việt Nam, Hồ Chí Minh" mà cô không biết đã nghe từ đâu. Tiếng Trung Quốc cô không biết, vậy nên khi bà lái buôn người Hoa ra hiệu hỏi quê quán, cô đã nói với bà câu ấy. Biết chắc Huyền là người Việt Nam, bà mẹ nuôi hứa sẽ đưa Huyền về quê cũ khi có chuyến hàng ngược về đại lục.

Hơn 2 tháng sau, trên chuyến tàu chở toàn đồ điện tử ấy, tạm biệt nước Mỹ phồn hoa, Huyền lênh đênh trở về Trung Quốc. Đến nơi, nghỉ ngơi vài ngày, Huyền được bà mẹ nuôi cho người đưa đến tận Lạng Sơn. Từ đây, Huyền tìm về Hà Nội, bởi nghĩ ở đó dễ kiếm sống và cơ hội tìm được người nhà sẽ lớn hơn nhiều.

Ở Australia, sau khi thấy Huyền đi chữa bệnh rồi mãi không quay lại trường, tưởng cô đã về nước, bạn bè của cô đã gom tất cả đồ đạc trong đó có cuốn Nhân Quả và gửi về Việt Nam. Thế nhưng, địa chỉ họ gửi không rõ ràng nên những thứ đồ đó không đến được tay người nhận.

Những ngày đầu ở Hà Nội, Huyền kiếm sống bằng nghề rửa bát thuê cho những hàng phở, hàng cơm bụi ở quanh Cầu Giấy. Tối, cô lang thang ở khắp các đình, chùa quanh đó tìm chỗ nghỉ chứ không thuê nhà bởi chẳng có tiền.

Gặp Huyền, chẳng biết vì mục đích gì, một bà buôn ở mãi Lạng Sơn cứ nằng nặc nhận cô chính là người con mất tích của bà. Sau nhiều lần thuyết phục, tưởng thật, cô đã theo người đàn bà đó ngược về xứ sở hoa hồi. Lên đó, thấy anh em, họ hàng của người đàn bà ấy không thân thiện với mình, nghĩ chắc chắn đây không phải nơi mình đã sinh ra nên ở được hơn một tuần, Huyền đã bỏ về Hà Nội và chuyển sang nghề bán bánh mì dạo.

Bởi lo ốm đau không ai chăm sóc nên gần năm trời đội bánh mỳ đi bán ở khắp các hang cùng ngõ hẻm, Huyền đã dành dụm được chút tiền. Biết Huyền có vốn, một ả buôn sách cũ ở đường Láng đã ngọt nhạt mời Huyền về để cùng nhau hùn vốn làm ăn. "Hợp tác" được vài tháng thì ả ôm sạch tiền bỏ trốn, vứt lại cho Huyền mớ sách cũ cuốn nhàu, cuốn rách.

Không còn sự lựa chọn nào khác, Huyền đành "tiếp quản" "gia tài" của ả lừa đảo kia để lại. Mong gỡ lại chút tiền, thôi nghề bán bánh mỳ, Huyền đi bán sách. Huyền là người ham đọc, nên cứ nhập được đợt sách nào là cô đọc hết rồi mới bày ra bán.

Chính sở thích ấy mà một ngày cuối năm 2004, nhập đợt hàng mới, thấy cuốn Nhân Quả hấp dẫn, cô đã giữ lại và đọc rất say mê. Có lẽ, có giàu trí tưởng tượng đến mấy, Huyền cũng chẳng thể ngờ rằng, cuốn sách cô đang cầm trên tay lại chính là cuốn sách mà cha cô tặng khi cô lên đường đi học 4 năm về trước.

Tò mò muốn ngắm nghía trang bìa của cuốn sách quý nên Huyền đã bóc dần những lớp giấy bọc ấy để xem. Bóc hết lớp bọc thứ nhất, cô giật mình khi thấy kẹp giữa hai bìa sách là tấm chứng minh nhân dân có ảnh một cô gái rất giống mình. Và, càng ngạc nhiên hơn khi thấy cái tên Lâm Thị Thanh Huyền trên chứng minh nhân dân là một cái tên rất quen mà hình như cô đã thấy ở đâu đó mà cô không thể nào nhớ rõ.

Không rõ quá khứ nên Huyền đâu biết rằng, trước đây, khi ở Australia, bởi quý món quà cha tặng, cô đã cất giữ cuốn sách ấy rất cẩn thận, đi đâu cô cũng mang bên mình. Chứng minh nhân dân của cô, sợ rơi mất nên cô gài luôn vào giữa hai bìa cuốn sách. Không ai biết cuốn sách đã lưu lạc bao nhiêu nơi, qua bao nhiêu chủ và giờ, chẳng hiểu lẽ gì mà lại quay về với Huyền.

Sao ở trên đời lại có người giống nhau đến thế? Hay người trong chứng minh nhân dân lại chính là mình? Những câu hỏi ấy đã khiến cô để ý đến chữ Bang và số điện thoại đã mờ ghi trên gáy sách. Và, để giải tỏa sự tò mò của mình, Huyền bấm máy theo số điện thoại ấy.

Chuông đổ một hồi dài thì đầu dây bên kia có tiếng alô. "Thưa bác, đây có phải nhà bác Bang không ạ?". "Không phải, cô nhầm rồi!". Nói vừa dứt câu, đầu bên kia cúp máy đánh rụp. Thấy tiếng người phụ nữ ở đầu dây bên kia rất quen, nên Huyền đã kiên nhẫn bấm máy lần thứ hai. "Đã bảo không phải rồi mà, cô buồn cười thế nhỉ!". Vẫn một tiếng "rụp" cất lên khô khốc.

Lại nói chuyện ở quê nhà, sau nhiều lần viết thư không thấy con trả lời, bố mẹ Huyền đã nghi ngại về một chuyện chẳng lành đã đến với con mình. Quá sốt ruột, ông đã tìm số điện thoại của trường con mình học và điện thẳng sang. Câu trả lời "Huyền không còn học ở đây nữa, em đã chuyển đi đâu thì chúng tôi không được rõ!" của nhà trường làm ông bà Bảng rụng rời chân tay.

Sau một thời gian không thấy Huyền trở về, bạn bè cô đã gom đồ dùng, sách vở của Huyền để lại gửi một người đưa về Việt Nam cho gia đình. Và có lẽ do địa chỉ ghi không rõ ràng, nên số đồ dùng, sách vở đó đã không đến được gia đình ông Bảng.

Sau khi đã khóc lóc suốt mấy ngày ròng, mọi người trong gia đình đã mỗi người một hướng bằng mọi cách có thể để tìm tin tức của Huyền nhưng đều vô vọng. Lúc ấy, ông Bảng nghĩ mình đã thật sự mất con.

Từng bị bắt và giam giữ ở địa ngục trần gian Phú Quốc thời Mỹ, ngụy nên ông Bảng đam mê sưu tầm những kỷ vật của đồng đội thời chiến. Cuối năm 2004, ông cho xây ngay trong khu vườn, cạnh mấy gian phòng trưng bày kỷ vật đồng đội một ngôi đền nhỏ để ngày ngày hương khói cho những anh linh đã ngã xuống vì đất nước. Sau gần một tháng thi công, đền thờ liệt sĩ đã được khánh thành vào đúng ngày 26 Tết. Đó cũng chính là ngày Huyền gọi điện về nhà.

Bà Nguyễn Thị Lan, mẹ Huyền kể, hôm ấy, đang bận rộn bởi khách khứa nên cứ thấy một cô gái gọi điện hỏi nhà ông Bang, bà đã phát bực và nói nặng lời. Ngoài Hà Nội, Huyền cứ nằm ngắm nghía tấm ảnh "giống mình" trong chứng minh nhân dân ấy chẳng hiểu vì lẽ gì cô đã bấm máy lần thứ ba.

Đang tiếp khách ở ngoài sân, thấy chuông điện thoại lại đổ dài, mẹ Huyền làu bàu bảo: "Chắc lại điện thoại của con bé ấy, đã bảo không phải lại cứ hỏi mãi! Rõ bực!". Thấy vợ mình khó chịu, ông Bảng vội chạy lại nghe máy. Vừa nghe giọng cô gái, khuôn mặt ông đã tái mét vì ở đầu dây bên kia là một giọng nói rất quen. "A lô! Ai đấy!? A lô! A lô…".

Không chờ đầu dây bên kia trả lời, ông hấp tấp hỏi như người đang ở tận cùng hoảng loạn. "Dạ, thưa bác nhà bác có ai tên là Huyền không ạ!?". "Có, có! Ai đấy!? Huyền đấy à con!? Ôi, ba đây mà! Ba của con đây mà! Con không nhận ra ba sao!? Thế con đang ở đâu để ba lên đón con về!?".

Nghe cô gái nói nơi mình ở, ông Bảng đã vội vàng vơ chiếc áo rét gọi thêm vài người nữa rồi ào lên Hà Nội. Chạy xe một lèo đến nơi Huyền ở, ngách 18 phố Trương Định, ông Bảng mừng như điên dại và không tin vào mắt mình nữa bởi cô gái đang đứng trước mặt chính là Huyền, con gái của ông.

Thế nhưng, Huyền vẫn không nhận ra ông và vẫn gọi ông bằng bác như người xa lạ. Mất một lúc lâu, nghe ông Bảng kể lại quãng thời gian ngày trước, kể tỉ mỉ việc gia đình đã cho Huyền đi du học thế nào thì cô mới tin người đàn ông tóc bạc như cước ấy chính là cha mình. Ngay đêm đó, cô theo ông về lại quê nhà sau gần 4 năm xa cách.

Năm ấy, nhà ông Bảng đã có một cái Tết đáng nhớ nhất trong đời. Họ hàng, làng xóm lúc nào cũng đến kín nhà chúc mừng cho sự trở về lạ kỳ của cô gái con ông. Và, để giúp Huyền dần dần phục hồi trí nhớ, ai đến, ông cũng giới thiệu kỹ lưỡng với cô để cô biết đâu là anh, là em, là cô, dì, chú, bác của mình.

Huyền bây giờ đã có một mái ấm hạnh phúc. Cô mới xây dựng gia đình tháng 1. Hiện đôi vợ chồng trẻ đang sống tại phòng 318/No 4B khu chung cư Linh Đàm, Hà Nội. Nhờ sự giúp đỡ tận tình của gia đình cũng như người chồng hiền lành, chu đáo, trí nhớ của Huyền cũng đã khôi phục nhiều. Tuy thế, vết thương ở đầu do tai nạn vẫn hành hạ cô mỗi khi trái gió trở trời. Những khi ấy, cô ôm đầu quằn quại như người điên dại.

Thế nhưng, có một điều lạ là những kiến thức Huyền đã được học thì cô lại nhớ lại rất nhanh và chính xác. Chính vậy mà hơn một năm nay, Huyền luôn có một khoản thu nhập ổn định nhờ nghề dạy học. Cô mở lớp dạy thêm ngay tại nhà và nơi đó đã là một địa chỉ tin cậy để nhiều học sinh tìm đến…

Cuốn sách Nhân Quả giờ ông Bảng giữ như báu vật đời mình. Ông bảo, nhờ nó mà con ông tìm được gia đình thế nên sau này trước khi qua đời, ông sẽ lại cẩn thận giao lại cuốn sách ấy cho Huyền cất giữ..
(Nguồn: Ngoisao.net)

 

Đính kèm

  • huyen.jpg
    huyen.jpg
    4.7 KB · Lượt xem: 38

Xem nhiều

Webketoan Zalo OA