Điểm sáng đáng ghi nhận nhất trong tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam hơn 30 năm qua là sự ra đời của Luật doanh nghiệp, người dân đã được quyền kinh doanh những gì luật pháp không cấm.
Tuy nhiên, trước khi có cột mốc đáng nhớ ấy, nhiều ông chủ doanh nghiệp VN đã trải qua lắm gian nan, lặn lội tìm cách "bung ra" trong chiếc áo cơ chế chính sách bắt đầu chật chội. Với họ, đời ông chủ cũng "ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh"...
Kỳ 1: Khởi sự từ xà bông không tên
Luật doanh nghiệp ra đời mở ra cơ hội làm ăn cho tất cả người dân, người dân được quyền kinh doanh những gì pháp luật không cấm. Đó là điểm sáng đáng ghi nhận nhất trong tiến trình phát triển kinh tế VN hơn 30 năm qua.
Tuy nhiên, trước khi có cột mốc đáng nhớ ấy, nhiều ông chủ doanh nghiệp VN đã trải qua lắm gian nan, lặn lội tìm cách “bung ra” trong những chiếc áo cơ chế chính sách chật chội.
Sau năm 1975, cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh như một cơn gió lốc đã quét qua cuộc đời của nhiều ông chủ doanh nghiệp tư nhân. Có những “cây cổ thụ” đã bị đánh bật gốc trong cơn lốc ấy, nhưng cũng có đám cỏ non vừa mới nhú, mềm mại uốn cong theo chiều gió và lớn lên.
Trong giới doanh nhân VN, tên ông Trịnh Thành Nhơn - tổng giám đốc Công ty hóa mỹ phẩm quốc tế ICC (Khu công nghiệp Đồng An, Bình Dương) - của ngày hôm nay không được nhắc đến nhiều bằng thời ông ngang dọc thị trường Nam Bắc với nhãn hiệu kem đánh răng Dạ Lan cách nay 20 năm.
Nhưng ông Nhơn bảo Dạ Lan không phải “người tình đầu” trong cuộc đời làm kinh tế của ông. Trước đó, ông đã cho ra đời một loại xà bông không nhãn hiệu, khi từ khe cửa sổ be bé của nhà mình ông nhìn thấy cả một thị trường rộng lớn bên ngoài. Ông gọi đấy là giai đoạn đấu tranh thầm lặng để giành lấy quyền kinh doanh cho mình.
Chỉ cần làm đúng, không cần làm tốt!
Sau năm 1975, cả gia đình ông Nhơn sống nhờ vào cửa hàng bán xà bông ở chợ Bình Tây, TP.HCM. Hàng hóa, trong đó có xà bông, hết sức khan hiếm. Đang là sinh viên năm 3, ông Nhơn còn tính cả chuyện chạy ra Bắc kiếm hàng về cho người chị bán kiếm sống.
Nhưng rồi ông nghĩ nhiều chủ hãng xưởng đã bỏ đi, sao mình không lấp vào thị trường? Nghĩ là làm. Ông gom góp 3.000 đồng, dẹp một góc trong nhà, kiếm ba cục gạch và một thùng phuy, mời ông thợ cả người Hoa của một hãng xà bông sang giúp. Thế là xưởng sản xuất xà bông không tên ra đời năm 1976.
Hàng làm ra không có chợ để bán. Thị trường của ông Nhơn là mấy hợp tác xã và công ty thương nghiệp của nhà nước. Ký hợp đồng rồi chẳng cần lo cạnh tranh, cứ cắm đầu sản xuất.
Nhưng làm cứ trốn chui trốn nhủi, ngày nào cũng nơm nớp lo sợ cơ quan quản lý thị trường ghé đến, chi cục đo lường sang kiểm tra, ủy ban phường qua hỏi thăm… Thành phẩm bán cho hợp tác xã được xem là hợp pháp, nhưng nguyên vật liệu lưu thông trên đường về xưởng lại là bất hợp pháp. Ông Nhơn mua dừa từ Mỹ Tho, Bến Tre, cho vào mấy cái bịch nilông nho nhỏ khi đi qua các trạm kiểm soát, vẫn chưa hết run khi đặt chân về đến nhà.
Ngày ấy, xà bông của ông Nhơn bán cho ngành thương nghiệp với giá do ủy ban vật giá duyệt. Để cho ra 1kg xà bông cần bỏ 7-8 đồng vốn, trong khi ủy ban chỉ duyệt giá bán 3,6 đồng, thế là các hãng sản xuất xà bông ăn gian nguyên liệu, tung ra thị trường những hàng kém chất lượng.
Hãng của ông Nhơn không là ngoại lệ. “Nhiều cán bộ nhà nước bảo với tôi họ chỉ yêu cầu tôi làm đúng, không cần tôi làm tốt. Nhưng với các qui định tréo ngoe như vậy, tôi làm đúng sao được. Nếu hàng làm đúng chất lượng, lỗ tụi tôi biết kêu ai bây giờ?” - ông Nhơn nhớ lại.
Khát vọng được sản xuất
Công việc kinh doanh ngày càng mở rộng, ông Nhơn sắm thêm máy móc, tuyển thêm công nhân. Mỗi ngày ông sản xuất đến 5 tấn xà bông, có ngày lên đến 10 tấn.
Năm 1979, một đoàn thanh tra bất ngờ xuất hiện, kiểm kê cả cửa hàng ở Bình Tây lẫn xưởng ở nhà. Ông thầm nghĩ chắc đến lúc phải chia tay với hãng xà bông này rồi, nhưng bất ngờ ông nhận ra một thành viên trong đoàn là “lính” của ông thời hoạt động học
sinh - sinh viên ngày xưa. “Thầy trò” nhận ra nhau, “trò” xúi “thầy” làm đơn xin phường xét lại. Ông Nhơn mừng quýnh, làm ngay. Vậy mà đoàn thanh tra cũng ở trong nhà ông cả tháng trời để canh giữ tài sản.
Đoàn thanh tra đi, ông Nhơn khởi động lại việc sản xuất. Chưa kịp mừng, ông bí thư phường xuống lệnh yêu cầu ông ngưng hợp đồng cung ứng cho công ty thương nghiệp, tất cả sản phẩm phải chuyển sang bán cho hợp tác xã phường.
Ông Nhơn nghe mà như sấm nổ bên tai. Hàng mới giao được hai ngày, kho của phường hết chỗ chứa. Cầm cự được nửa tháng, ông Nhơn quyết định thuê xe chở đi bán. Xe vừa ra khỏi phường thì bị phát hiện và tịch thu toàn bộ.
Đầu năm 1980, ông Nhơn bị phường gọi lên, bảo qui mô hãng của ông lớn quá, phải “phát triển” lên thành xí nghiệp đời sống của phường. Phường cấp cho ông cái nhà, kêu ông chuyển hết nguyên liệu, lao động, máy móc... vào đấy sản xuất.
Phường cử người làm giám đốc, ông được giao phụ trách kỹ thuật. “Ngay từ đầu tôi đã thấy không ổn. Mấy ổng chẳng hiểu gì về sản xuất kinh doanh gì cả, tôi làm thế này mấy ổng cứ chỉ đạo làm thế khác. Hai bên cứ lo cãi nhau thì làm ăn gì được” - ông Nhơn lắc đầu. Các mối bỏ nguyên liệu thấy ông Nhơn “làm cho nhà nước” đều lảng đi hết. Xí nghiệp hoạt động eo sèo được hai năm thì giải tán, ai trở về nhà nấy. Bước ra khỏi cổng phường, vốn liếng ông Nhơn cũng bay sạch.
Đến năm 1989, với sự ra đời của nghị quyết 16, cánh cửa cho tư nhân làm kinh tế mở ra. Khát vọng về việc được bận rộn, được sản xuất, được bắt mạch thị trường trỗi dậy trong ông. Ông thành lập doanh nghiệp Sơn Hải, và nổi đình nổi đám với kem đánh răng Dạ Lan vào đầu thập niên 1990.
Bây giờ mỗi lần gặp khó khăn, những hình ảnh gian nan làm ăn buổi đầu lại hiện lên trong ông. Ông hỏi ngày xưa khó khăn thế vẫn đeo đuổi được, bây giờ chính sách đã mở ra hơn ngàn vạn lần, chẳng lẽ khó khăn không giải quyết được? Và ông bước tiếp.
Tuy nhiên, trước khi có cột mốc đáng nhớ ấy, nhiều ông chủ doanh nghiệp VN đã trải qua lắm gian nan, lặn lội tìm cách "bung ra" trong chiếc áo cơ chế chính sách bắt đầu chật chội. Với họ, đời ông chủ cũng "ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh"...
Kỳ 1: Khởi sự từ xà bông không tên
Luật doanh nghiệp ra đời mở ra cơ hội làm ăn cho tất cả người dân, người dân được quyền kinh doanh những gì pháp luật không cấm. Đó là điểm sáng đáng ghi nhận nhất trong tiến trình phát triển kinh tế VN hơn 30 năm qua.
Tuy nhiên, trước khi có cột mốc đáng nhớ ấy, nhiều ông chủ doanh nghiệp VN đã trải qua lắm gian nan, lặn lội tìm cách “bung ra” trong những chiếc áo cơ chế chính sách chật chội.
Sau năm 1975, cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh như một cơn gió lốc đã quét qua cuộc đời của nhiều ông chủ doanh nghiệp tư nhân. Có những “cây cổ thụ” đã bị đánh bật gốc trong cơn lốc ấy, nhưng cũng có đám cỏ non vừa mới nhú, mềm mại uốn cong theo chiều gió và lớn lên.
Trong giới doanh nhân VN, tên ông Trịnh Thành Nhơn - tổng giám đốc Công ty hóa mỹ phẩm quốc tế ICC (Khu công nghiệp Đồng An, Bình Dương) - của ngày hôm nay không được nhắc đến nhiều bằng thời ông ngang dọc thị trường Nam Bắc với nhãn hiệu kem đánh răng Dạ Lan cách nay 20 năm.
Nhưng ông Nhơn bảo Dạ Lan không phải “người tình đầu” trong cuộc đời làm kinh tế của ông. Trước đó, ông đã cho ra đời một loại xà bông không nhãn hiệu, khi từ khe cửa sổ be bé của nhà mình ông nhìn thấy cả một thị trường rộng lớn bên ngoài. Ông gọi đấy là giai đoạn đấu tranh thầm lặng để giành lấy quyền kinh doanh cho mình.
Chỉ cần làm đúng, không cần làm tốt!
Sau năm 1975, cả gia đình ông Nhơn sống nhờ vào cửa hàng bán xà bông ở chợ Bình Tây, TP.HCM. Hàng hóa, trong đó có xà bông, hết sức khan hiếm. Đang là sinh viên năm 3, ông Nhơn còn tính cả chuyện chạy ra Bắc kiếm hàng về cho người chị bán kiếm sống.
Nhưng rồi ông nghĩ nhiều chủ hãng xưởng đã bỏ đi, sao mình không lấp vào thị trường? Nghĩ là làm. Ông gom góp 3.000 đồng, dẹp một góc trong nhà, kiếm ba cục gạch và một thùng phuy, mời ông thợ cả người Hoa của một hãng xà bông sang giúp. Thế là xưởng sản xuất xà bông không tên ra đời năm 1976.
Hàng làm ra không có chợ để bán. Thị trường của ông Nhơn là mấy hợp tác xã và công ty thương nghiệp của nhà nước. Ký hợp đồng rồi chẳng cần lo cạnh tranh, cứ cắm đầu sản xuất.
Nhưng làm cứ trốn chui trốn nhủi, ngày nào cũng nơm nớp lo sợ cơ quan quản lý thị trường ghé đến, chi cục đo lường sang kiểm tra, ủy ban phường qua hỏi thăm… Thành phẩm bán cho hợp tác xã được xem là hợp pháp, nhưng nguyên vật liệu lưu thông trên đường về xưởng lại là bất hợp pháp. Ông Nhơn mua dừa từ Mỹ Tho, Bến Tre, cho vào mấy cái bịch nilông nho nhỏ khi đi qua các trạm kiểm soát, vẫn chưa hết run khi đặt chân về đến nhà.
Ngày ấy, xà bông của ông Nhơn bán cho ngành thương nghiệp với giá do ủy ban vật giá duyệt. Để cho ra 1kg xà bông cần bỏ 7-8 đồng vốn, trong khi ủy ban chỉ duyệt giá bán 3,6 đồng, thế là các hãng sản xuất xà bông ăn gian nguyên liệu, tung ra thị trường những hàng kém chất lượng.
Hãng của ông Nhơn không là ngoại lệ. “Nhiều cán bộ nhà nước bảo với tôi họ chỉ yêu cầu tôi làm đúng, không cần tôi làm tốt. Nhưng với các qui định tréo ngoe như vậy, tôi làm đúng sao được. Nếu hàng làm đúng chất lượng, lỗ tụi tôi biết kêu ai bây giờ?” - ông Nhơn nhớ lại.
Khát vọng được sản xuất
Công việc kinh doanh ngày càng mở rộng, ông Nhơn sắm thêm máy móc, tuyển thêm công nhân. Mỗi ngày ông sản xuất đến 5 tấn xà bông, có ngày lên đến 10 tấn.
Năm 1979, một đoàn thanh tra bất ngờ xuất hiện, kiểm kê cả cửa hàng ở Bình Tây lẫn xưởng ở nhà. Ông thầm nghĩ chắc đến lúc phải chia tay với hãng xà bông này rồi, nhưng bất ngờ ông nhận ra một thành viên trong đoàn là “lính” của ông thời hoạt động học
sinh - sinh viên ngày xưa. “Thầy trò” nhận ra nhau, “trò” xúi “thầy” làm đơn xin phường xét lại. Ông Nhơn mừng quýnh, làm ngay. Vậy mà đoàn thanh tra cũng ở trong nhà ông cả tháng trời để canh giữ tài sản.
Đoàn thanh tra đi, ông Nhơn khởi động lại việc sản xuất. Chưa kịp mừng, ông bí thư phường xuống lệnh yêu cầu ông ngưng hợp đồng cung ứng cho công ty thương nghiệp, tất cả sản phẩm phải chuyển sang bán cho hợp tác xã phường.
Ông Nhơn nghe mà như sấm nổ bên tai. Hàng mới giao được hai ngày, kho của phường hết chỗ chứa. Cầm cự được nửa tháng, ông Nhơn quyết định thuê xe chở đi bán. Xe vừa ra khỏi phường thì bị phát hiện và tịch thu toàn bộ.
Đầu năm 1980, ông Nhơn bị phường gọi lên, bảo qui mô hãng của ông lớn quá, phải “phát triển” lên thành xí nghiệp đời sống của phường. Phường cấp cho ông cái nhà, kêu ông chuyển hết nguyên liệu, lao động, máy móc... vào đấy sản xuất.
Phường cử người làm giám đốc, ông được giao phụ trách kỹ thuật. “Ngay từ đầu tôi đã thấy không ổn. Mấy ổng chẳng hiểu gì về sản xuất kinh doanh gì cả, tôi làm thế này mấy ổng cứ chỉ đạo làm thế khác. Hai bên cứ lo cãi nhau thì làm ăn gì được” - ông Nhơn lắc đầu. Các mối bỏ nguyên liệu thấy ông Nhơn “làm cho nhà nước” đều lảng đi hết. Xí nghiệp hoạt động eo sèo được hai năm thì giải tán, ai trở về nhà nấy. Bước ra khỏi cổng phường, vốn liếng ông Nhơn cũng bay sạch.
Đến năm 1989, với sự ra đời của nghị quyết 16, cánh cửa cho tư nhân làm kinh tế mở ra. Khát vọng về việc được bận rộn, được sản xuất, được bắt mạch thị trường trỗi dậy trong ông. Ông thành lập doanh nghiệp Sơn Hải, và nổi đình nổi đám với kem đánh răng Dạ Lan vào đầu thập niên 1990.
Bây giờ mỗi lần gặp khó khăn, những hình ảnh gian nan làm ăn buổi đầu lại hiện lên trong ông. Ông hỏi ngày xưa khó khăn thế vẫn đeo đuổi được, bây giờ chính sách đã mở ra hơn ngàn vạn lần, chẳng lẽ khó khăn không giải quyết được? Và ông bước tiếp.