Truyện ngắn: Mặt trời bé con của tôi - Thùy Linh

  • Thread starter hoangaccounting
  • Ngày gửi
H

hoangaccounting

To put one's family first
22/9/05
836
2
18
HCMC
www.baobinhdinh.com.vn
Mặt trời bé con của tôi
Thùy Linh

Tôi gặp cậu bé Nguyên lần đầu tiên ở nhà một người bạn. Tối hôm ấy đến chơi nhà Hà - đứa bạn thân nhất hồi tôi còn là sinh viên - thấy Hà đang ngồi chơi với một cậu thiếu niên mười bốn, mười lăm tuổi mặc bộ quần áo bộ đội rộng thùng thình. Chẳng hiểu sao tôi bị chú bé ấy thu hút suốt buổi nói chuyện. Có lẽ tại đôi mắt! Ðôi mắt như mượn của người lớn lắp vào khuôn mặt còn đầy lông tơ, trông dè dặt và buồn mênh mang. Khi nó cười, thì khuôn mặt bị biến dạng đi, còn vẫn không xua được ánh buồn. Lúc nó về, tôi hỏi Hà được biết, năm Nguyên lên tám tuổi thì bố mẹ bỏ nhau. Thằng anh 16 tuổi ở với bố, Nguyên ở với mẹ. Ðược nửa tháng, thằng anh nhớ em quá nên đến xin bố cho hai anh em cùng về ở với mẹ. Vài tháng sau, mẹ đi lấy chồng. Theo yêu cầu của người chồng mới, người mẹ bỏ hai đứa con để theo ông ta. Không chịu theo mẹ về với bố dượng, hai anh em tự kiếm sống ở với nhau. Năm Nguyên mười ba tuổi, anh cậu bị bắt đi tù vì tham gia mấy vụ ăn cắp trong nhà máy. Từ đó Nguyên sống một mình.
Hà kể đến đấy thì có khách. Khi về suốt dọc đường tôi cứ nghĩ về cậu bé đáng thương kia. Nhưng tình thương ấy cũng chỉ là cơn gió lạ tràn qua, khiến tôi có cảm giác se lạnh trong chốc lát nếu không có một buổi chiều...
Gần hết giờ làm, tôi xin phép trưởng phòng để đong gạo. Ðầu tháng, lại sắp tết nên cửa hàng gạo khá đông. Trước tôi có khoảng bốn chục chỗ xếp lằng nhằng đủ thứ: bao tải, nón rách, gạch, làn... tôi ngao ngán xếp bao tải vào cuối hàng rồi lên trên đứng. Trước ô cửa bán người ta đứng túm tụm chẳng ra hàng lối. Ai ghi sổ xong phải lách mãi mới ra được chỗ lấy gạo. Tiếng cô bán hàng đang nói với người mua:
- Ðong hết nhé, một cân gạo nếp, bảy cân gạo, năm cân mỳ, năm đồng tám.
- Chị cho em đong một nửa thôi - người mua là một chú bé.
- Hôm nay không có bao lẻ - Cô ta gắt gỏng.
- Dạ... nhưng... em không đủ tiền.
Hai bên đôi co, những người đứng phía sau nhao nhao:
- Ði đong gạo không mang đủ tiền thì làm sao?
- Thôi tránh ra cho người khác lên mua. Mấy ông bà phía trên xích lên cho, đừng để ai chen vào.
Chú bé không mua được gạo lách đám đông chui ra. Hóa ra là Nguyên. Mặt nó đỏ bừng, tay cầm cái bao tải bị rách mấy chỗ được buộc túm lại, giận dữ nhìn những người đứng sau vừa phản đối, nó lẩm bẩm câu gì đó rồi bỏ đi. Sau giây phút ngỡ ngàng, tôi chạy theo gọi giật lại:
- Nguyên, quay lại chị bảo.
Nhận ra tôi, đôi mắt dịu đi nó khẽ cười:
- Chị cũng đi đong gạo à!
- Em không mang đủ tiền hả? Chị có đây này, quay lại đong đi.
Nguyên lắc đầu, tôi nắm cánh tay nó lắc nhẹ:
- Tết đến nơi rồi, em còn định để đến hôm nào nữa?
- Dạ... - Nó ngập ngừng - Em hết tiền rồi... Vay chị lấy đâu mà trả. Em chẳng đong nữa đâu - Nó hất nhẹ tay tôi như giận dỗi, bỏ đi. Tôi đứng nhìn theo cái dáng lòng khòng trong bộ áo quần bộ đội rộng thùng thình ấy, cái đầu ngẩng cao vẻ bất cần, tôi chợt hiểu: Nguyên đã khước từ sự thương hại của tôi.

*


* *​

Với hoàn cảnh riêng của mình tôi không mặn mà lắm trong việc đón năm mới. Sáng ba mươi tôi dậy sớm đi chợ, nấu nướng. Cả mấy ngày tết, tôi chỉ làm cơm có ngày này, trước là để cúng tổ tiên, ông bà, bố mẹ, sau là để ăn lai rai cả tuần lễ, khỏi phải lịch kịch.
Làm xong, ngồi ăn một mình thấy chán ngắt. Mời mấy đứa bạn nhưng chúng đều từ chối. Cũng phải, tết nhất nhà nào chẳng muốn sum họp đầy đủ, người nào không được may mắn ấy phải chịu. ?n xong, tôi lấy đĩa thịt gà, đĩa xôi, một khoanh giò, hai cái bánh chưng, gói riêng từng thứ vào tờ báo để đem xuống nhà Nguyên. Sau buổi gặp nó ở cửa hàng đong gạo, tôi nảy ra ý định sẽ tìm đến nhà nó. Mục đích để làm gì tôi không nghĩ đến, chỉ biết Nguyên là đứa trẻ rất đáng thương. Thêm người bạn nhỏ tuổi ấy cũng tốt chứ sao!
Qua ngã tư Cửa Nam, tôi mua một bó hoa hồng trắng. Nhà Nguyên ở gần nhà Hà, nhưng tôi không qua rủ Hà vì sợ mối quan hệ láng giềng sẽ làm Nguyên ngại ngùng. Phòng bốn mươi nhăm, bốn mươi sáu, bốn mươi bảy - đây rồi! Tôi ngập ngừng gõ cửa. Liệu có bị chú bé đuổi ra với túi đồ này không nhỉ? Thái độ của nó hôm đong gạo làm tôi chờn chờn.
- Chị! Sao chị biết nhà em? - Nguyên mở cửa, cười rất tươi chào tôi. Chiếc áo bộ đội mặc vội vẫn chưa cài hết cúc.
Tôi bước vào giữa phòng và chưa biết phải làm gì. Căn phòng ngoài rộng chừng mười hai mét vuông giữa nhà sát tường kê chiếc bàn nhỏ và bốn chiếc ghế, trong góc nhà có một cái tủ con, cánh đã bị mọt thủng lỗ chỗ. Có thể đó là gia sản duy nhất của bố mẹ nó để lại. Nguyên vào buồng trong, lúc sau đi ra, thấy tôi vẫn đứng như trời trồng giữa nhà, nó kêu lên:
- Chết, chị ngồi xuống ghế đi. Ðun bằng "tàu ngầm" đấy chị ạ, nhanh không? - Nó giơ ấm tích nước còn nghi ngút khói lên, rót ra hai chiếc chén để chỏng chơ trên bàn - Em chẳng có chè đâu, chị uống tạm nước trắng nhé!
- Chị đến chơi, mặc dù chưa được chủ nhân đồng ý. Ðứng ngoài cửa lo bị lót lá dắt tay ra ngoài đường, ai dè được chiêu đãi món thanh thủy.
Nghe tôi nói nó cười, nhưng nụ cười ấy nhanh chóng biến mất. Tôi trách mình đã đùa quá sớm. Nguyên ngồi xuống ghế ỉu xìu:
- Cái hôm đi đong gạo em dở hơi quá phải không chị?
- Chuyện vặt ấy mà - Tôi gạt đi - Thế đã đong gạo được chưa?
- Hôm trước nhờ các cô bác xung quanh góp cho em hơn trăm bạc ăn tết. Em đã đong và vẫn còn nguyên đây - Nó móc túi lôi ra hai tờ năm mươi đồng, một tờ hai mươi đồng và mấy đồng bạc lẻ.
- Chiều nay chị làm cơm cúng ngồi ăn một mình buồn quá, định gọi em xuống nhà chơi luôn, nhưng ngại em... - Tôi hất hàm cười với nó.
- Chị ở một mình thôi à?
- ừ - Tôi kể cho Nguyên nghe qua hoàn cảnh của tôi. Từ lúc đó câu chuyện giữa chúng tôi trở nên thoải mái hơn. Tôi bỗng thấy một chú bé Nguyên khác hẳn, hoạt bát, vui vẻ. Cũng phải thôi, cuộc sống có những nét giống nhau thì dễ đồng cảm và hòa hợp với nhau. Tôi thiếu thốn tình cảm của người mẹ từ bé nên rất hiểu sự mất mát ấy trong Nguyên. Nhưng Nguyên khổ hơn tôi gấp vạn lần vì có mẹ mà như không.
Tôi lấy các thứ mang theo từ nhà để lên bàn. Nguyên hấp tấp chạy vào buồng lôi ra hai chiếc bát con, một chiếc đĩa và một cái bát ô tô. Nó phân bua:
- Rổ bát nhà em chỉ vậy thôi!
Hà kể cho tôi nghe: một lần bà hàng xóm cho nó mấy miếng thịt kho nó bày lên mâm nhưng để đấy và chỉ ăn muối ớt, ngày hôm sau cũng thế, đến ngày thứ ba mới ăn. Thấy tôi trầm ngâm nó hỏi:
- Chị làm sao thế?
- à... không!
- Chị xem, em ăn tết cũng đầy đủ các thứ đây này - Nó đứng dậy đi về phía buồng, vén tấm ni lông, bên trong là chiếc bảng hình chữ nhật. Nguyên kéo chiếc bảng ra giữa nhà, lấy cái ghế chặn phía sau. Trên bảng vẽ lọ hoa đào, mứt tết, bánh chưng, con gà ngậm bông hồng đỏ nằm trên đĩa... Toàn hương vị ngày tết, Nguyên cười:
- Em vẽ đấy, đẹp chứ chị? Giao thừa xong em sẽ kê ở chỗ kia, ai vào cũng thấy ngay.
Tôi không cười được. Sống mũi tôi cay xè như hít phải ớt bột. Tôi sực nhớ bó hoa mua từ lúc nãy vẫn còn để trong túi. Thấy hoa Nguyên chạy lại mừng rỡ:
- Loại hoa này em thích đấy. Ðể em kiếm cái cắm. Chà, tết năm nay em xôm thật!
Nguyên chạy ra ngoài sân, lúc quay vào mang theo ống bơ sữa bò đã gỉ. Nó đổ nước vào đấy rồi đưa cho tôi. Tôi giơ chiếc ống bơ lên ngắm nghía, còn đang ngần ngại thì Nguyên giục:
- Chị sợ nó xấu chứ gì? Không lo, em đã có cách, chị cứ cắm vào.
Nguyên lấy hai tờ giấy xanh mầu cẩm thạch dán liền lại. Loáng một cái nó đã gấp xong hình chiếc lọ, chụp ra bên ngoài ống bơ. Tôi và nó cũng lùi ra xa ngắm nghía. Tôi trầm trồ:
- Ðẹp thật! Hoa trắng nền xanh trông rất nổi lại nhã.
Ðược khen, Nguyên cười gật gù có vẻ khoái chí. Nó kể cho tôi nghe chuyện lớp học, bạn bè như chưa bao giờ có người để nói chuyện. Tôi sống lại thời học sinh với đủ trò nghịch ngợm, khiến nhiều khi bố mẹ, thầy cô phải bực mình. Nỗi buồn man mác ám ảnh tôi suốt cả ngày hôm qua biến đâu mất. Ðang kể, chợt nhớ ra điều gì, Nguyên chạy vào buồng, chui tuột xuống gầm giường lôi ra một khúc gỗ dài, một đầu gắn chiếc ống bơ sữa bò trắng tinh, phía trên có thanh sắt dài cong cong. Nguyên lấy tay phủi bụi trên đó như sợ bị đau. Nó khoe:
- Em có cái này nữa cơ. Ðàn bầu em tự làm lấy đấy.
Tôi tưởng mình mang đến niềm vui cho Nguyên, không ngờ bị cuốn hút vào thế giới của riêng nó. Hết cái lạ này đến cái lạ khác, vui có, cười ra nước mắt có.
- Bây giờ em đàn cho chị nghe nhé - Nó ghếch một đầu chiếc đàn lên bàn, còn đầu kia để xuống đùi, tay mân mê cái cần cong cong nhìn tôi lưỡng lự - chơi bài gì bây giờ... à, phải rồi!
Tiếng đàn rè đục. Tôi chẳng hiểu Nguyên đang chơi bài gì nữa. Một mớ âm thanh lùng bùng bên tai. Một hồi Nguyên ngẩng lên nhìn tôi:
- Chị có biết bài gì không?
- Chịu, em đánh đàn mà cứ như đánh đố ấy.
Nó nhe răng cười đổ lỗi tại cái đàn tự tạo để lâu ngày không đánh nên dây bị gỉ.
- Bài hát này em thích lắm mà không biết đầu đề. Như thế này... - Nó e hèm một cái rồi cất tiếng hát bằng cái giọng đang vỡ - Cầm lá thiếp này lòng hướng vô Nam. Dù xa muôn trùng nhưng tình em vẫn ngàn năm không mờ... Thôi em chẳng hát nữa kẻo chị lại cười. Chị nghe đoạn này nhé, nghe này... Tình tình tình gió bay. Nghe ra chưa?

Tôi rũ ra cười vì kiểu đánh đàn của nó. Mặc tôi cười, Nguyên vừa đánh vừa minh họa bằng lời hát. Hết bài nó hất hàm nhìn tôi:
- Nghe êm chứ chị?
Tôi cũng bắt chước điệu bộ của nó hai tay xoa xoa vào nhau, gật gật đầu ra chiều tán thưởng, nhưng rồi không nín được, tôi cười phá lên, Nguyên ngất ngư cười theo.
Ðang vui, Nguyên chậm chạp đứng dậy, dựng đàn vào góc nhà. Nhìn dáng điệu thẫn thờ, buồn bã của nó, tôi hỏi khẽ:
- Em làm sao thế ?
- Chị có phải về trước giao thừa không? - Nguyên vẫn đứng góc nhà hỏi chẳng buồn quay mặt ra.
- Không, chị ở lại đón giao thừa với em. Chị mang theo cả bánh pháo đây này.
- Thật không ? Chị ở lại nhá? - Nó quay ngoắt lại, mắt sáng bừng, khiến tôi không dám nhìn thẳng vào đấy - Thế mà em cứ tưởng...
Hóa ra nó buồn vì tưởng tôi phải về. Nếu Nguyên bé lại một chút hoặc tôi già thêm chục tuổi thì tôi sẽ ôm riết lấy nó vào lòng. Nguyên mấp máy môi định nói câu gì đó nhưng lại thôi, rồi bước nhanh đến bên tôi cuống quýt:
- Chị em mình phải dọn dẹp qua nhà cửa để tý nữa còn đón giao thừa chứ. Chị quét nhà và bày biện lại cho em, em ra đây một tý.
Không đợi tôi trả lời Nguyên chạy vù ra cửa. Lúc quay về cầm theo túi kẹo. Nguyên lấy tờ giấy trắng cắt thành hình hoa và để túi kẹo lên đó.
- Hôm nay được phép chi vào "ngân quỹ". Phải có gì khao chị chứ! Giao thừa xong chị em mình sẽ phá cỗ.
Cỗ của Nguyên là mấy thứ tôi mang đến, thêm túi kẹo nó vừa mua. Tôi bày tất cả lên bàn, cạnh lọ hoa hồng.
Chỉ còn nửa tiếng nữa là giao thừa. Nguyên tìm chiếc que để treo bánh pháo khi đốt. Nó làm rất cẩn thận như chuẩn bị cho một việc trọng đại sắp sửa diễn ra tại đây. Vừa làm, nó vừa nói chuyện với tôi:
- Có mấy thằng bạn rủ em đến nhà tụi nó đón giao thừa. Em chả thích thế, dù sao mình cũng là người lạ.
"Thằng bé nghĩ gớm thật!" - Tôi thầm nghĩ - những đứa trẻ như nó thường khôn hơn lũ trẻ cùng tuổi, bởi sớm phải tự quyết định mọi việc của bản thân. Tôi dù sao vẫn còn sự chăm sóc của người cha. Tôi không biết mình sẽ ra sao nếu ba tôi mất sớm hơn?
Lúc này tôi mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt Nguyên. Phải nói là Nguyên đẹp trai, khuôn mặt thon thả đôi mắt đen mở to được che bởi hàng mi dài cong vút - một đôi mắt đặc con gái. Nhìn hàng ria mờ đen phía trên môi cu cậu tôi bật cười. Nguyên nhìn tôi ngạc nhiên:
- Chị cười gì thế ?
- à... Em làm khéo tay như con gái ấy - Tôi nói lảng.
- Phải làm cho nó quen tay chứ. Em còn biết khâu nữa cơ. Chị xem này - Nó giơ lưng về phía tôi. Miếng vá bằng bàn tay ở giữa lưng lộ rõ cả đường chỉ.
Tiếng chuông đồng hồ từ vô tuyến ở các nhà xung quanh thong thả gõ từng tiếng. Ðó đây đã râm ran tiếng hơi pháo. Nguyên nhìn tôi, hiểu ý, tôi gật đầu.
- Em tắt đèn chị nhé. Ðể xem ánh lửa từ những quả nổ trông đẹp hơn.
Nguyên xòe diêm châm lửa đốt. Quả pháo cối đầu tiên nổ rất giòn. Mặc dù đã chuẩn bị trước, tôi vẫn hơi bị giật mình theo phản xạ tự nhiên. Ðợi quả pháo cuối cùng nổ xong, tôi bảo Nguyên:

- Năm nay chị em mình sẽ gặp nhiều cái may, vì pháo nổ rất tốt.
Không thấy Nguyên trả lời, tôi nhìn sang. Hai tay vịn vào song cửa sổ, mắt nhìn xa vời vợi. Qua ánh đèn từ ngoài đường hắt vào tôi thấy ở khóe mắt nó hai giọt lệ lớn sắp sửa lăn xuống má. Tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Cũng giờ này năm ngoái tôi còn đón giao thừa với ba ở bệnh viện. Năm nay ba bỏ con một mình. Ba ơi...
- Chị! Nguyên quay sang tôi giọng nghẹn ngào: - Chị... Chị là chị gái của em nhé !
Tôi nhìn nó cười trong khi hai hàng nước mắt kéo vệt trên hai má.
- Nguyên! Chị sẽ là chị của em mãi mãi. Nếu ba còn sống chắc ba sẽ rất thích vì có thêm một cậu con trai đấy!
Nguyên cười rồi đưa tay lên quệt má. Tôi chẳng buồn lau mặt nữa. Chúng tôi đứng như vậy nhìn ra phía xa rực ánh đèn các mầu. Xung quanh là tiếng pháo nổ khi xa khi gần, liên tục. Một năm mới bắt đầu...
Mẹ tôi mất năm tôi lên tám tuổi - cái tuổi bắt đầu cảm nhận được tình yêu của người mẹ đối với mình một cách có suy nghĩ. Tôi vẫn còn nhớ mấy hôm sau khi mẹ mất, ba không khóc nhưng thường nhìn tôi thở dài. Lúc ấy trong ba có vẻ suy nghĩ ghê lắm. Một lần đi học về tôi khoe với ba là cái Thụy được mẹ nó may cho một cái váy rất đẹp. Mấy hôm sau, thấy ba sưu tầm ở đâu rất nhiều tranh ảnh những đứa bé mặc váy hỏi tôi thích kiểu nào, rồi ba mang vải đến nhà người quen nhờ họ hướng dẫn cắt và tự tay ba khâu cho tôi. Từ đó đến khi tôi học hết cấp ba, quần áo của tôi đều do ba may cho. Tốt nghiệp Ðại học, ba giục tôi lấy chồng, nhưng tôi bảo chưa tìm được người tâm đầu ý hợp, ba đùa yêu: thế tâm với ý của con thế nào để ba chọn giùm. Thực ra trong thâm tâm, tôi rất sợ lấy chồng mà phải về nhà chồng, để ba không ai chăm sóc. Hơn nữa chẳng may phải người không tốt, họ đối xử tệ bạc với ba thì tôi sẽ ân hận suốt đời. Năm ngoái ba mất vì bệnh ung thư phổi, tôi đã phải trải qua giờ phút kinh hoàng khi nghĩ rằng chỉ có một mình ở trên đời.
Trước đây và bây giờ tôi rất nhiều bạn bè, chúng thường xuyên đến chơi với tôi, an ủi tôi làm tôi đỡ đi phần nào cảnh cô đơn. Bọn tôi thường tổ chức các buổi nói chuyện, vui chơi, ăn uống ngay tại nhà tôi. Lúc ấy, tôi thấy rất vui vẻ. Khi mọi người ra về, mình tôi đối diện với bốn bức tường của căn phòng thì sự trống trải lại xâm chiếm tôi.
Cuộc sống của tôi từ ngày có Nguyên khác hẳn. Chúng tôi đến với nhau tự nhiên như sinh ra trên đời này là để có nhau. Tôi cảm thấy thời gian nhàn rỗi của mình có ích hơn khi phải bận rộn, lo toan cho cả người khác. Mặc dù tôi nói bã bọt mép, Nguyên vẫn không chịu rời bỏ nếp sống cũ: sáng đi học, chiều đi học, tối gánh nước thuê cho mấy hàng phở ở đầu phố để kiếm sống. Quen Nguyên một thời gian tôi mới biết, hơn hai năm nay nó không hề nhận một đồng nào của bố mẹ nó gửi về cho. Nếu họ đến thăm thì nó tìm cách lẩn trốn. Hàng xóm láng giềng khuyên nó không nên như thế Nguyên chẳng nói gì nhưng lần sau vẫn lặp lại như cũ. Người ta đã bắt gặp có lần Nguyên đứng ở cửa sổ nhìn theo bóng mẹ nó đi chiếc Diaman cho đến khi khuất hẳn. Ðôi mắt vốn đã buồn lại buồn hơn. Tiếp xúc với Nguyên tôi thấy rằng thằng bé có một nghị lực ghê gớm mà tôi không có được. Sống trong môi trường như vậy mà Nguyên vẫn giữ được mình thật là hiếm!
Học hết lớp chín, Nguyên nói với tôi là xin đi làm. Tôi khuyên thế nào nó vẫn một mực: em không thể sống dựa vào lòng tốt của người khác mãi được. Có điều kiện em sẽ học sau, em hứa với chị như vậy!
Sau khi cân nhắc khá lâu, tôi vẫn kiếm được việc làm cho Nguyên theo nguyện vọng của nó. Công việc chủ yếu là phụ việc cho các họa sĩ trong một xưởng họa. Chỗ đó tuy lương ít hơn mấy nơi khác mà tôi đã hỏi, nhưng yên tâm hơn vì Nguyên học hỏi được nhiều điều ở bậc đàn anh cho cái nghề nghiệp mà nó mơ ước đã chớm bước vào. Hôm lĩnh tháng lương đầu tiên, Nguyên phóng xe thẳng một mạch về nhà tôi, mồ hôi nhễ nhại, một tay thu ra phía sau, khuôn mặt sáng bừng. Chưa khi nào tôi thấy nó tươi tỉnh như thế:
- Hôm nay em được lĩnh lương. Thế là em đã làm ra tiền rồi nhé. Em mua cho chị cái này, đoán xem, cái mà chị vẫn thích ấy.
Thấy tôi đoán sai, nó sốt ruột giơ bắp ngô nướng ra, dứ dứ rồi rụt nhanh về.
- Có thế mà không đoán ra.
- Ôi! Ðưa cho chị đi Nguyên, chị thèm chảy nước miếng ra đây này - Tôi kêu toáng lên.
Nguyên rối rít kể chuyện các anh chị ở cơ quan đã chúc mừng nó ra sao, có anh còn tặng nó một chiếc túi để đựng đồ đi làm. Với nó, đó là một sự kiện trọng đại trong đời.
- Em mới đi làm một tháng mà thấy khỏe hẳn ra. Chị xem này - Nó đứng dậy vươn vai, hít căng lồng ngực hãy còn phẳng lỳ của đứa trẻ đang lớn. Trong thâm tâm, tôi luôn mơ ước Nguyên sẽ trở thành một họa sĩ nổi tiếng. Sự mong mỏi ấy nhiều khi trở thành niềm tin chắc chắn trong tôi, bởi Nguyên rất có năng khiếu hội họa và giàu nghị lực.
Chị em quý nhau như vậy nhưng bất cứ sự giúp đỡ nào của tôi hơi thiếu tế nhị một chút thì Nguyên khéo léo từ chối ngay. Tôi gọi đùa nó là "mẹ chồng" bởi cái tính khe khắt ấy. Nó cười rồi nói với giọng buồn buồn: " ở hoàn cảnh em dễ bị người ta nghĩ xấu. Anh em đã vậy, có người tưởng em rồi cũng thế". Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa hiểu hết lòng tự trọng của những đứa trẻ như Nguyên lớn đến mức nào?
Một lần, tôi và Nguyên đi chợ, nó xách làn lẽo đẽo đi sau. Gặp một thanh niên mù ăn xin, tôi để vào mê nón của anh ta đồng bạc. Lúc ngẩng lên bắt gặp ánh mắt khinh bỉ và cười mỉa mai của Nguyên. Ra khỏi cổng chợ, nó bảo:
- Sao chị lại cho anh ta? Anh ta vẫn còn khỏe mạnh kia mà!
- Ai muốn vậy đâu em. Em không thấy anh ta mù sao?
- Anh ta mù thì còn chân tay. Thiếu gì việc dành cho người mù, việc phải đem khuyết tật của mình để cầu xin của bố thí của người ta. Thà chết đói còn hơn!
Nguyên nói cũng có lý, nhưng nghe cái giọng lạnh lùng ấy tôi không thể chịu được. Tôi bực bội bảo:
- Em đừng tàn nhẫn như thế. Các cụ đã bảo "giàu hai con mắt khó đôi bàn tay" đó sao? Nghiêm khắc với mình nhưng phải rộng lượng với người khác chứ!
Suốt dọc đường về, tôi và Nguyên không tranh luận gì thêm. Có lẽ nào nó lạnh lùng với đau khổ của người khác đến thế được chăng? Hay nó bị mất mát nhiều trong tình cảm đến mức chai sạn nên khó rung động đến nỗi đau của người khác? Nguyên lặng lẽ đi bên tôi, có thể nó liên tưởng đến chuyện của nó. Ðược, càng hay!
Cuộc sống của chị em tôi êm ả trôi đi. Từ ngày Nguyên đi làm, tôi bắt nó mỗi tháng phải dành mười đồng gửi tiết kiệm, nói đùa là để cưới vợ. Nó xấu hổ nói lảng: "Nếu thế em chẳng để dành nữa". ở một mình, nó lôi bạn bè về nhà bày bừa khiếp lên được. Tranh vẽ treo lộn xộn khắp tường, bột mầu rơi loang lổ trên nền nhà, chỗ cái ấm, chỗ cái chén. Tuần nào tôi cũng phải lên dọn dẹp hộ nó nhưng chỉ ngày hôm sau lại đâu vào đấy. Tôi, Nguyên và bạn bè của nó thường tổ chức những chuyến chơi xa vào ngày thứ bảy, chủ nhật. Tụi nó mang theo đồ nghề, tới nơi nào có phong cảnh đẹp là mải mê ngồi vẽ và phân công tôi lo bữa ăn. Biết công việc của tôi hay cần đến sách vở, Nguyên rất chịu khó đi lùng các hiệu sách tìm mua cho tôi những cuốn truyện, sách nghiên cứu vừa in. Không hiểu học được ở đâu, nó viết một câu to tướng vào tủ sách của tôi: "Kẻ nào cho mượn sách là kẻ ngu. Kẻ nào giả sách lại còn ngu hơn". Tôi thuyết phục mãi nó mới chịu bỏ đi...
Thứ bảy, tôi về sớm hơn một chút, đi mua mấy lạng thịt làm bún chả và gọi dây nói báo cho Nguyên về ăn cơm. Ðợi đến bảy giờ tối, vẫn chưa thấy nó đâu, tôi sốt ruột đi ra, đi vào. Gần tám giờ, Nguyên mới lò dò về đến cửa đã liến thoắng không kịp để tôi hỏi han câu nào:
- Chị chờ em lâu lắm phải không? Em có chút việc ở cơ quan. Em đói điên lên đây này. Hôm nay em sẽ ăn hết những thứ chị làm cho mà xem.
- Thì rửa mặt đi đã nào!
Ngồi ăn, Nguyên kể cho tôi nghe hôm qua ở cơ quan nó có đợt khám nghĩa vụ quân sự, trúng tuyển năm người, xưởng họa của nó cũng có một anh đi đợt này.
- à quên mất, em được cơ quan cho đi học đấy.
Nó móc túi lấy tờ giấy đưa tôi xem. Ðó là công văn quyết định của Nguyên nghỉ công tác từ tháng chín để ôn thi vào trường Cao đẳng mỹ thuật. Nguyên đã có bằng cấp III bổ túc văn hóa. Gần cuối bữa ăn, Nguyên bảo tôi:
- Chị ơi, em... em... - Nó bỏ lửng không nói tiếp. Tôi bỏ bát bún đang ăn dở nhìn nó khó hiểu. Thảo nào đang lúc nói chuyện, tôi có cảm giác như nó định nói chuyện gì đó nhưng còn ngần ngại.
- Chị tính xem em nên đi học hay đi bộ đội? - Nó nhìn tôi không chớp mắt.
Thật khó trả lời. Lâu nay tôi vẫn là người chị khuyên bảo lời hay lẽ phải. Bây giờ sẽ phải nói với nó ra sao? Ði bộ đội hay đi học? Nếu suy bì hơn thiệt thì đi học sẽ tốt hơn nhiều. Nguyên sẽ có cả một tương lai mà tôi hằng mong mỏi cho nó. Nhưng khi nó đã cân nhắc giữa việc đi học và đi bộ đội thì có nghĩa nó nhận thức được vai trò của người thanh niên và sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, vất vả của người lính. Tôi nhìn Nguyên và bỗng thấy nó già dặn hẳn lên. ừ, nó mười tám tuổi rồi còn gì! Tôi biết, Nguyên đã quyết định, chỉ vì tôn trọng tôi nên mới hỏi như vậy.
- Cái đó tùy em - Tôi nói chậm rãi, mắt không rời vầng trán thông minh được phủ bởi lọn tóc đen phía trước của Nguyên - Em đã lớn, chị tin em sẽ có quyết định đúng đắn. Nhớ báo sớm cho chị biết ngày đi.
- Ðấy em biết mà, chị bao giờ cũng nói điều phải... - Nó ngập ngừng rồi nói rất nhanh: - Hơn nữa em ra đi để bù lại phần nào lỗi lầm của anh em, để người ta hiểu những đứa như em hơn.
Nguyên cầm đĩa lên và trút hết chả còn lại vào bát của tôi:
- Chị ăn đi, em gắp cho chị chẳng được bao lâu nữa. Hôm nay em đã khám sức khỏe, loại A1 nhá. Chị cứ chê em còm nữa đi.
?n xong, Nguyên dành việc rửa bát. Trước khi bê mâm đi, nó còn lấy khăn mặt ướt và cốc nước đưa cho tôi.
Thế là Nguyên đi bộ đội đã được sáu tháng. Vắng Nguyên tôi thấy cửa nhà vắng vẻ hẳn. Mỗi tháng Nguyên thường viết cho tôi ba bốn lá thư. Chẳng có chuyện gì xảy ra mà nó không kể, nào là bà chủ nhà rất thương hay để dành cho củ khoai, củ sắn mỗi khi đi tập về; nào là các trò nghịch ngợm của các cậu lính trẻ... Nó viết: "... Ngoài giờ luyện tập em vẫn tranh thủ vẽ thêm, nghỉ lâu sợ cứng tay mất. Ðược nhiều nhiều em sẽ gửi về cho chị xem, góp ý và giữ hộ em. Em rất khỏe. Tăng ki-lô so với hồi ở nhà, da đen hơn trông như anh nông dân ấy, chắc chị không nhận ra mất". Thư tôi nhận được cách đây hai tuần Nguyên báo đã đi lên biên giới. Trước đây, tôi chưa khi nào hỏi mà cũng chẳng nghe thấy Nguyên nhắc đến bố mẹ. Ðột nhiên hai hôm trước ngày lên đường, Nguyên hỏi tôi:
- Chị thấy em có nên đến chào bố mẹ em không?
Hóa ra trong tâm hồn Nguyên vẫn còn một góc không nhỏ dành cho những người đã sinh ra rồi bỏ rơi mà tôi cứ tưởng không bao giờ Nguyên tha thứ cho họ. Hồi còn bé chỉ là sự giận dỗi, tức tối của con trẻ không được người lớn vuốt ve âu yếm. Nhưng khi lớn lên hiểu hết mọi việc diễn ra xung quanh, một mặt nó phán xét, một mặt thèm khát tình yêu của bố mẹ. Bằng cách có thể xa, nhưng ranh giới giữa tình yêu và sự căm thù thực là mỏng manh, Nguyên không căm thù bố mẹ nó, nhưng tình yêu ngày một cạn đi khiến người nó khô cằn. Chính cái đó mới là điều đáng sợ. Tôi rất mừng khi nghe Nguyên nói.
Tối hôm ấy, tôi chuẩn bị cho nó quần áo đẹp nhất và giục đi. Khi Nguyên về, tôi không hỏi chuyện nhưng nhìn đôi mắt nó tôi đoán chuyện gì đã xảy ra. Ðôi mắt đẹp ấy buồn hơn nhưng bớt sự lạnh lùng, chua chát. Bây giờ tôi mới chợt hiểu sức mạnh ghê gớm của tình yêu mà tạo hóa đã ban cho con người!
Một năm nữa lại trôi qua. Một năm Nguyên làm anh bộ đội.
Tối nay cũng như mọi tối khác. Viết xong bài báo để ngày mai nộp cho phòng, tôi lôi len ra đan. Ðứa bạn đi công tác ở Ðức về cho nửa cân len mầu xám, tôi dành để đan cho Nguyên. Mầu này rất hợp với đàn ông, hơn nữa ở biên giới mùa đông rất lạnh. Nguyên thường viết thư kể cho tôi nghe về bông tuyết đầu mùa phủ long lanh trên tán lá rừng... Ðan thì đan chứ biết làm thế nào gửi lên cho Nguyên được. Khoảng mười giờ đang định dọn dẹp giường đi ngủ thì có tiếng gõ cửa. Ai đến chơi khuya thế nhỉ? Hay là Nguyên về? Tôi mừng rỡ đứng dậy, thì cánh cửa hé mở. Trước mắt tôi là anh bộ đội trạc ba mươi tuổi, quần áo bám đầy bụi đất. Chắc anh ta vừa đi qua chặng đường dài khá vất vả. Thấy vẻ ngạc nhiên, bối rối của tôi, anh ta nói luôn:
- Tôi là Trung, cùng đơn vị với Nguyên.
- Thế ạ! Mời anh vào chơi. Anh vừa trên đó về?
Tôi hấp tấp đi pha nước, hỏi chuyện rối rít khiến khách không nói được câu nào. Bất giác, tôi quay lại nhìn Trung. Anh ta quay mặt đi khi bắt gặp cái nhìn của tôi. Tôi linh cảm có chuyện chẳng lành. Trung vẫn ngồi mân mê cái mũ mềm trong tay. Không chịu được không khí căng thẳng ấy, tôi run run hỏi:
- Có chuyện gì xảy ra với Nguyên phải không anh?
- Vâng... Nguyên... hy sinh.
Anh ấy nói gì thế nhỉ? Tôi thấy mình đang ngồi trên con thuyền trôi bồng bềnh, các bức tường nhà chao đi, chao lại. Tiếng Trung rơi lõm bõm vào tai tôi như tiếng người thở đứt quãng... Chúng tôi đi trinh sát thì lọt vào ổ phục kích của địch... Gần hết đạn mà địch vẫn tràn lên rất đông... Anh Trung phải quay lại báo cho đơn vị biết thôi... Không!... Nghe em, anh còn bé Sơn, đừng để bé Sơn phải mất bố... Tôi, hạ sỹ Nguyễn Thành Nguyên ra lệnh cho binh nhất Nguyễn Văn Trung phải chấp hành mệnh lệnh... Khi đơn vị tôi diệt xong ổ phục kích của địch, đến nơi thì Nguyên đã tắt thở, trên người có chín vết đạn bắn vào... Bóng đèn giữa nhà tỏa ra quầng xanh, đỏ, vàng giống như ánh đèn các mầu rọi vào chỗ chị em mình đứng đón giao thừa hôm nào, đúng không Nguyên?... Có phải Nguyên đấy không?... Ðừng buồn chị nhé, đi bộ đội về em sẽ học ra trò cho mà xem... Em sẽ vẽ tặng chị bức tranh to đúng bằng người chị hôm cưới... Mặc thử áo len này đi, chị đan cho em đấy... Ôi, em không giơ tay lên được; đau quá, chúng nó bắn em. Chúng tưởng thế là chia rẽ được chị em mình chắc...
Ai để hòn than lên ngực tôi thế này? Trời ơi, bức bối quá! Cả chiếc khăn quàng cổ này nữa, vứt đi! Ðột nhiên người tôi run bắn lên như chạm phải lửa, nước mắt cứ thế chảy ra không sao ngăn được. Hãy chỉ đứa nào bắn em, Nguyên, chị sẽ trả thù cho em. Ðừng bỏ chị, em ơi...!
Không biết tôi sẽ ngồi khóc bao lâu nếu anh Trung không kéo tôi trở về với thực tại.
- Chị hãy bình tĩnh lại. Nguyên dặn tôi đồ đạc của cậu ấy đưa về cho chị. Ðây...
Trung đưa cho tôi chiếc ba lô đã bạc mầu đang để dưới chân bàn. Anh xin phép ra về vì đã khuya, trước khi ra cửa anh còn quay lại bảo tôi:
- Chị đừng tỏ ra mềm yếu, Nguyên không thích thế đâu.
Câu nói ấy như một liều thuốc làm ngưng đọng mọi cảm xúc, mọi suy nghĩ trong tôi: ngưng đọng cơn hoảng loạn đang xâm chiếm tôi. Tôi ngồi lần giở ba lô của Nguyên. Có hai bộ áo quần bộ đội bạc mầu. Còn một chiếc áo bộ đội nữ - có lẽ là chiếc áo mà Nguyên đã viết thư kể cho tôi: "Em lấy chiếc áo mới phát nhờ cô cấp dưỡng cắt và tự tay khây lấy cho chị. Chẳng hiểu có vừa với người chị không?". Một tập tranh vẽ cuộn tròn rất kỹ, xếp giữa mấy bộ áo quần. Và cuối cùng là chiếc hộp sắt nhỏ, dẹt, hình chữ nhật. Tôi mở ra, bên trong có ba bức ảnh đã ngả màu vàng. Một bức ảnh người đàn ông, một bức ảnh người phụ nữ, đằng sau là chữ Nguyên viết hồi còn bé "Ðây là bố", "Ðây là mẹ". Còn bức ảnh thứ ba, đứa bé đang lẫy đằng sau có ghi dòng chữ: "... Mặt trời bé con của mẹ".
Lần giở được những thứ ấy ra, chân tay tôi mỏi rã rời như vừa phải làm một việc quá nặng. Không buồn mắc màn, tôi với tay tắt đèn rồi nằm vật ra giường, với chiếc áo len đan giở úp lên mặt...

*


* *​

Bạn bè, người quen hỏi thăm tôi về Nguyên, thì hoặc là tôi né tránh câu trả lời, hoặc là tôi nói thật điềm tĩnh: "Nguyên hy sinh rồi!". Ðó là điều không thể có trong tôi trước đây, một người không biết kiềm giữ niềm vui hay nỗi buồn đau. Sao lại thế? - Tôi không trả lời rành rẽ được, chỉ biết đó là ảnh hưởng của Nguyên đối với tôi. Em kiên quyết và bình tĩnh trong khó khăn, vui buồn của cuộc sống ngay từ những ngày em chưa làm người lớn. Và , chính vì vậy em sống có trách nhiệm biết bao!
Tôi đã tìm đưa cho bố mẹ Nguyên ảnh chân dung họ thời trẻ. Họ đã khóc. Người đàn ông gục mặt vào song cửa, lặng lẽ lau mắt, còn người phụ nữ thì òa lên. Cả hai nơi tôi không ngồi lại lâu, chẳng phải vì tôi ghét bỏ họ, trái lại tôi còn thương họ nữa, nhưng quả thật tôi không thể nói chuyện với họ được. Còn bức ảnh đứa trẻ đang tập lẫy thì tôi giữ, tôi thấy mình có quyền làm việc ấy. Giữ bức ảnh đó, là giữ mãi hình ảnh của Nguyên khi buồn bã, khi cười đùa... là giữ mãi một cuộc đời cho cuộc đời mình. Con người đi qua, ánh sáng còn để lại mãi, phải vậy không? Và, em là mặt trời bé con của chị, phải vậy không, Nguyên?

Tháng 8-1993
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
H

hoangaccounting

To put one's family first
22/9/05
836
2
18
HCMC
www.baobinhdinh.com.vn
Nhà trọ

Nhà trọ
Nguyễn Thị Châu Giang
Không khí đặc quánh. Trời phồng rộp lên rồi vỡ ra vài giọt nước bám bụi đen sì chảy chậm chạp trên thành lan can bằng gỗ mốc xỉn. Mọi người đâm bổ ra đường, cố hít vào ngực một thứ khí sền sệt để giảm bớt sự ngột ngạt. Nhưng vô hiệu. Trời vẫn bỏng rộp và cây cối héo rũ.
Ba tôi từ công sở về, mặt mày hốc hác. Ông ngồi dựa lưng vào cánh cửa, đầu gục xuống. Mẹ mon men lại gần, giọng sợ hãi: "Có chuyện gì thế?". "Giảm biên chế". Mẹ ngơ ngác: "Sao bảo chỉ còn vài năm nữa ông nghỉ hưu". Ba ngẩng lên, thiểu não: "Thế nó mới đểu. Thằng Hiền bảo công ty làm ăn thua lỗ vì cơ cấu tổ chức nhân sự. Phải thay đổi" - Ba ứa nước mắt: "Mình tung hê nó lên. Bây giờ rõ thằng ăn cháo đái bát". Tôi giật mình. Chỉ mới một ngày, mặt bố già sọm. Những nếp nhăn chảy ngoằn ngoèo không phương hướng trên mặt, ba đã già rồi, và đôi khi lầm lẫn nữa. Tôi bảo: "Con thấy ba nghỉ được rồi. Thời buổi này bọn trẻ nhanh chân lẹ mắt lên nắm quyền mới được". "Nhưng tao nhiều kinh nghiệm". Ba nhấm nhẳn. Tôi cười: "Kinh nghiệm nhưng vi tính, tiếng Anh, giao thiệp không có, ba cạnh tranh nổi với ai". Ba nổi cáu: "Mày thì biết gì", những mạch máu chạy trên trán ông căng ra như sắp đứt. Mẹ suỵt khẽ: "Thì con nó cũng chỉ muốn ông nghỉ ngơi". "Nghỉ ngơi gì" - Ba thở dài: "Biết lấy gì sống đây? Ðang đi đường bằng tự nhiên bước hụt xuống hố. Bà bảo không đau sao được" và ông nặng nề đứng dậy, bỏ vào nhà.
Chị Nhân bày cơm ra bàn, hỏi khẽ: "Cãi nhau à?". "Không. Ba nghỉ làm rồi". Chị Nhân để nghiêng tô canh, nước trào ra bàn. Tôi cười: "Bình tĩnh. Chứ kiểu này về làm dâu là tiêu rồi". Chị ngỏn nghẻn cười: "Em thấy anh Hiền thế nào?". "Ai?" - Tôi trố mắt - "Lão Hiền vừa cho ba nghỉ việc đấy". Mặt chị Nhân tái xanh. Hai mắt thất thần nhìn ra ngoài cửa sổ vần vụ mây mà không sao mưa nổi. "Làm sao bây giờ". "Thì cứ yêu đi đã - Tôi nháy mắt - Ðợi ba nguôi tính sau" và tôi cố sửa lại vẻ mặt nghiêm túc, ảm đạm.
Bữa cơm trôi qua nhạt thếch. Chị Nhân không nuốt nổi cơm, cứ len lét nhìn ba mẹ. Tôi đá chân chị: "Chị Nhân ơi, ăn nhanh đi chơi". Ba ra lệnh: "Mai hai chị em lên gác. Tầng dưới cho thuê bớt mới đủ sống". Tôi nhăn nhó:
"Nhưng chật lắm" và hì hụi dắt xe chạy ra đường. Những cơn gió hiếm hoi thổi tốc vào mặt làm tôi quên hết mọi chuyện.
*​
Hai chị em chuyển lên gác. Căn phòng bé xíu, ẩm mốc, và ngột ngạt. Phía bên trái có cánh cửa sổ phủ mây và trông sang một mái tôn đầy phân mèo. Buổi tối gió hiu hiu thổi, một thứ mùi lờm lợm bốc lên không sao chịu được. Lâu lắm nó mới được mở ra, sau khi xịt nước hoa đầy phòng.
Nhà dưới ba mẹ ngăn ra làm đôi. Ðằng trước vừa làm phòng khách vừa làm phòng ngủ của ông bà và một cái bếp bé tý hin. Phía sau còn hai phòng nhỏ kê một cái giường và một cái bàn cũ kỹ bằng gỗ, một cánh cửa cũng bằng gỗ thông ra con hẻm khác. Tất cả cùng sử dụng chung công trình phụ đặt dưới chân cầu thang. Ban đầu mẹ định lắp máy lạnh cho nước ngoài thuê nhưng tính đi tính lại thế nào mẹ bảo ba để thế cũng hời. Ba ừ hữ, bỏ mặc mọi chuyện cho mẹ. Ba lãnh đạm và lẩn thẩn với tất cả.
Người đầu tiên đến thuê là một phụ nữ còn trẻ dẫn theo hai đứa bé giống nhau như đúc. Cô không đẹp nhưng có duyên. Cái duyên ngầm càng nhìn lâu càng đắm đuối, hợp vai trò của một cô thư ký phải luôn cặp với những ông chủ cỡ bự. Cô xách theo linh tinh đồ đạc, bày đầy góc nhà và nhìn tôi cười: "Cháu xem cô còn trẻ thế này mà bận bịu quá". Tôi lớ láo nhìn lên trần nhà bám muội than đen sì: "Thế chú ấy đâu?". Cô ngẩn ngơ không trả lời. Tôi lí nhí:
"Cháu không biết nên mới hỏi", chỉ muốn chui tọt xuống kẽ đất! Vừa may chị Nhân chạy sang dặn: "Ba mẹ đi chơi. Sáu giờ rồi, chị cũng phải đi đây".
Hôm nay chị Nhân rất đẹp. Chị diện váy trắng, tóc xõa loăn xoăn kiểu cách trên khuôn mặt buồn dịu. Tôi ghẹo: "Ði chơi với Hiền à? Không sợ ba mẹ biết à". Chị im lặng cắm cúi bước đi. Cô Diệu lắc đầu bảo: "Chị cháu khổ vì tình, lụy vì tình. Ðàn bà như thế không sướng được. Nhất là tâm". "Thế còn cháu?". Cô nắm chặt tay tôi, mắt ánh lên những tia ma quái: "Cháu thì khác. Cháu mạnh mẽ hơn chị Nhân nhiều". Cô thở dài "Mà con gái thế nào thì cũng khổ".
Hai đứa bé con đã lăn ra ngủ vùi. Tôi khen: "Hai đứa chắc giống bố". Cô bỏ nốt túi xách vào gậm bàn: "ừ, mỗi người một nét", giọng lạnh tanh. Tôi đi về nhà thấy nhà vắng vẻ và buồn như nhà trọ không người thuê. Tôi mở cửa. Lại một mùi chua lòm bốc lên hầm hập.
Mẹ đẩy cửa vào, hai bàn tay nổi đầy gân xanh miết chặt vào nhau. Mẹ nhìn tấm ảnh của cô gái treo đầu giường vẻ khó chịu nhưng rút cục không phê phán như mọi hôm mà chỉ hỏi giọng lo lắng: "Con có hay nói chuyện với chị không? Ba con giờ giở tính, mẹ không lo lắng gì cho hai con cả... lại còn chuyện buôn bán". Tôi cười: "Tụi con lớn rồi mẹ à", trong bụng nghĩ thầm, mẹ lúc nào cũng thế, có lo lắng gì đâu ngoài chuyện phiền trách chúng con. "Dạo này chị mày hay về muộn thế". Mẹ mơ màng - "Hồi xưa đi chơi chín giờ về mẹ đã bị bà ngoại rầy. Bây giờ tự do quá dễ hư". "Cũng còn tùy - Tôi dúi đầu vào ngực mẹ. Mẹ đâu phải là bà ngoại. Mà tụi con là con gái ngoan". Mẹ gật đầu: "ừ mẹ mong thế. Con gái sảy chân ra đường bao nhiêu là cạm bẫy". Mẹ xuống nhà. Căn phòng yên trở lại. Chiếc quạt máy chạy lè xè như đuổi ruồi. Một con mèo đi lang thang trên mái tôn kêu gào thảm thiết.
Chị Nhân về, mồ hôi ướt đẫm. Chị bảo: "Mệt quá" và đổ vật xuống giường. Mặt mũi khép lờ đờ. Tự nhiên tôi thấy chị giống như một con mèo hoang. Con mèo hoang trắng muốt. Chị hé mắt: "Em ngủ khuya thế?". "Em chờ chị". "Lần sau cứ ngủ trước đi. Chị đi cổng nhà chị Diệu, ba mẹ không biết đâu". "Mẹ vừa ở đây. Mẹ đang lo". Tôi cười. Thế nào nhỉ? "Con gái ra đường sảy chân bao nhiêu cạm bẫy". Chị nghiêm nét mặt vẻ bồn chồn dữ. Rồi quay mặt vào tường: "Ngủ đi", vẻ đầy bí ẩn. Ðôi vai gầy nảy lên một cái. Tôi hỏi: "Có chuyện gì thế?". "Yêu đương. Mày con nít không biết đâu". "Chị lầm rồi. Con nít bây giờ tinh lắm. Chuyện gì cũng giỏi cả". "Vậy à. Chị vật vã... Chữ trinh có đáng ngàn vàng không?". "Có chứ". Tôi quả quyết quay sang đã thấy chị ngủ mất, hơi thở thật bình yên.
*​
Bạn trai của cô Diệu rất nhiều. Nhưng tuyệt nhiên không thấy bố của hai đứa bé. Gặng hỏi cô cũng chỉ bảo đang làm ăn xa. Cô với hai đứa bé sống phần nhiều là nhờ vào những người bạn tốt bụng. Nhiều hôm cô đi đến khuya mới về, tôi lại sang trông con cho cô. Hai đứa bé như hai con búp bê nhưng ngớ ngẩn. Chúng không biết nói, biết cười. Cô bảo: "Cô sống đến giờ là vì hai đứa. Chứ đời cô bầm giập, chẳng còn tương lai". Tôi vuốt mái tóc óng mượt của cô: "Sao lại không? Cháu thấy cô như thế này bao nhiêu bạn bè là hạnh phúc". Cô cười lúc lắc mình không nói, mặt bỗng dưng hóp lại như mặt bà già.
Khoảng tháng sau, cô Diệu bàn với mẹ tôi để nhà cho thêm một người khách thuê. Cô ở ngoài, người đó ở trong. Ðó là một người đàn ông cứng tuổi - một họa sĩ nghiệp dư. Ông ta đến mang theo các loại khung và giá vẽ, những bức tranh ngoằng nguỵt khó hiểu, bốn chiếc lọ gốm xanh đậy kín nắp và một con mèo mun ăn nhiều nhưng gầy gò giơ xương.
Tôi dẫn hai đứa bé vào phòng ông, lặng yên xem ông vẽ. Ông hỏi: "Mẹ chúng nó đâu". "Ði làm rồi ạ". Ông gật gù: "Một người đàn bà tốt". "Cháu cũng nghĩ thế". Tôi ru hai đứa ngủ. Ngồi hết giờ này đến giờ khác xem ông phết lên toile những mảng mầu đỏ ối hoặc tăm tối mà sau cùng được chú thích bằng một dòng chữ nhỏ. "Ký ức chiến tranh" nghiêng ngả như những bóng người lội dưới bom. Cho đến khi chị Nhân về, mẹ của bọn trẻ về tôi mới lồm cồm bỏ lên lầu.
Chị Nhân vẫn chơi với anh Hiền, dù đôi khi lương tâm cắn rứt, hạnh phúc lung lay khổ sở. Tôi nhắc khéo: "Coi chừng ba mẹ biết". Chị bĩu môi: "Ba mẹ vô tư lắm, không biết đâu". Chị treo áo vào tủ: "Sau này có con chị sẽ quan tâm đến nó, nhưng theo cách khác". "Là sao?". Chị nhún vai bất cần và lơ mơ ngủ mất. Tôi nằm mãi mà không ngủ được. Không hiểu giờ này mẹ con cô Diệu đã ngủ chưa. Ông họa sĩ đáng mến đang làm gì bên bốn chiếc lọ mầu ngọc bích đậy kín bưng. Họ đang làm gì khi đêm chậm rãi trôi qua.
*​
Cơm dọn ra mà không ai ăn nổi. Hôm nay ba mẹ từ nhà dì về, mặt mày hớt hải. Vừa bước vào nhà ba đã hỏi chị Nhân về chưa. Tôi lắc đầu: "Chị Nhân chiều nay đi ăn cơm với bạn bè". Ông nghiến răng: "Với thằng Hiền phải không?". Tôi hốt hoảng: "Con không biết". "Thế mà tao biết. Hai đứa chúng nó đi trước mắt tao tình tứ lắm". Mẹ rụt rè: "Thì khoan đã. Ông cứ nhặng xị cả lên con nó sợ". Ba vò đầu bứt tóc: "Lửa cháy đến nơi mà còn bảo khoan. Làm sao tôi khoan được".
Khoảng mười giờ chị Nhân về, hát nho nhỏ từ cổng. Mẹ nhắc khéo: "Vui vẻ nhỉ. Sao không đi hết đêm đi". Chị ngơ ngác. Tôi thò tay kéo áo chị: "Lộ rồi!". Ba gầm gừ: "Mày bỏ nó đi. Cái thằng đấy không đáng xách dép cho mày. Nó hại cha mày chưa đủ, định để hại cả mày luôn à?". Chị nức nở: "Nhưng anh ấy đàng hoàng, yêu con thật lòng. Chuyện của ba anh ấy bảo vì công ty không cần công việc đó nữa. Mà ba cũng đã già". "Nó nói láo. Nó bị tao cản trở việc làm ăn phi pháp của nó - Ba xuống giọng - Thôi con ạ, nghe ba còn bao nhiêu đám khác". Tôi can: "Ba ơi, chuyện tình yêu khó nói, khó dứt ra lắm". Trong bụng hoang mang không biết có nên bênh chị Nhân không. Anh chị cũng tội nhưng đứng về phía ba có thằng con rể từng hất cẳng như thế cũng kỳ. Mà trong sách báo không có trường hợp nào như vậy cả. Tôi dáo dác. Chị Nhân nhìn tôi biết ơn. Ba hầm hè: "Nhưng tao cấm. Mày đừng có mang voi về giầy xéo nhà này". Chị Nhân òa khóc, gào to: "Nhưng con và anh ấy yêu nhau. Ba không có quyền". "Tao có quyền là ba mày". Ba ôm ngực ho sù sụ, mặt tái nhợt. Mẹ hốt hoảng: "Ðưa ba vào giường mau". Ba uống mấy viên thuốc an thần, vật vã một lúc mới ngủ được. Tôi nghe mẹ thì thầm và giọng chị Nhân nghẹt cứng: "Ba mẹ cứ yên tâm" và tiếng hít mũi đánh roẹt.
Tôi bỏ sang nhà ông họa sĩ, nằm lên chiếc divan bọc nhung đỏ, nước mắt chảy ướt đẫm gỗi. Ông hỏi: "Sao thế cháu?". "Chuyện tình yêu. Người ta hay khổ vì chuyện tình yêu". Tôi cảm thấy khó thở khi kể mọi chuyện cho ông nghe. Ông sẽ vuốt tóc tôi: "Ngốc quá. Chưa có gì là nghiêm trọng cả cô bé ạ". Tôi nhổm dậy: "Thế khi nào mới là nghiêm trọng?". "Khi không còn ai ở bên mình nữa. Lo lắng cho mình nữa". Mặt ông cau lại. Một giọt nước to tướng chạy xuống má ông. Tôi rụt rè: "Chú khóc à?" "Lại đây tôi cho xem". Ông chỉ chiếc bình gốm đặt trên cao: "Gia đình của tôi đấy. Họ chết vì bom Mỹ. Từ lâu rồi, một người vợ và ba đứa con. Tôi tưởng là không sống nổi nhưng cô thấy đấy, tôi vẫn đang ngồi cạnh cô đây, đang cầm tay cô đây. Cái gì rồi cũng qua hết. Cô Nhân cô ấy vẫn còn hạnh phúc". Ngừng một lát, ông thì thầm: "Tôi yêu họ", "Sao chú không thờ?" "ở đây - Ông đưa tay lên ngực - Lúc nào cũng ở đây thì cần gì phải thờ". Tôi bối rối: "Cháu xin lỗi vì đã nhắc đến chuyện buồn của chú". "Không, đã thành sẹo rồi. Mà tôi cũng muốn cô biết. Cô thật đáng mến". Ông đưa tay kéo con mèo gầy lại gần và dịu dàng vuốt cổ nó. Tôi thấy khung cảnh này thật quen thuộc, đáng yêu. Bên cạnh ông tôi thấy mình hạnh phúc và yên lành. Tôi khoan khoái duỗi người, đoán chắc chị Nhân sẽ không bỏ anh Hiền được. Tôi mỉm cười với ông: "Nếu chú cô đơn chú cứ nói chuyện với cháu. Nhé!" Ông gật đầu và cũng cười. Nụ cười làm mặt ông sáng lên rạng rỡ.
Vân tới chơi mang theo mưa đầu mùa ướt rượi. Từ ngày vào Ðại học, hai đứa ít gặp nhau hẳn. Bạn bè, bài vở. Kỷ niệm cũng ít khi giở ra ngắm nghía.
Chúng tôi leo lên gác. Căn phòng tối mù, thoảng mùi mưa vọng qua ô cửa.
Vân hỏi: "Ðã yêu chưa?" Tôi ngập ngừng: "Chắc là đã". Vân rú lên: "Người thế nào?". "Tuyệt lắm". "Già hay trẻ". "Già". "Làm gì" "Hưu rồi". "Có giầu không?". "Không. Nếu không nói là rất nghèo". Vân ngạc nhiên: "Con điên". Vậy mà cũng yêu. "Thì sao? Tao thấy hợp". Tôi ngồi thần mặt, phân vân không biết có hợp thật không. Hay chỉ ảo tưởng. Mà như thế buồn lắm. Bỗng nhiên chỉ muốn chạy xuống căn phòng có cái chụp đèn mầu hồng, con mèo mun gầy gò và bên giá vẽ, một người đàn ông ngồi hiền lành. Mái tóc thưa và mỏng ép sát vào da đầu. Hai túi thịt ở mắt kéo xuống làm mặt ông đầy vẻ đau khổ và từng trải. Tôi yêu vẻ từng trải ấy, sự dịu dàng ấy từ những ngón tay thô của ông. Những thứ mà tụi con trai bây giờ không có, chỉ hời hợt và nhạt phèo. Mà ông thì có tất cả. Tôi yêu ông ấy vì tất cả.
Váy áo của chị Nhân ướt sũng, dính vào da thịt. Tôi bảo: "Ði chơi với bồ mà tênh hênh thế kia. Mỗi lần thế chị nên mặc váy đen thì hơn". "Không. Chị rơm rớm nước mắt. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng". Tôi sững người, cổ họng đau buốt: "Sao chị vội vàng thế?"
Ðêm ấy hai chị em không ngủ. Mưa tạnh từ lâu. Những con mèo lại đi tuần hành trên mái nhà gọi nhau thắm thiết. Cả hai cùng thức nhưng không thể nói với nhau một tiếng nào. Mắt tôi bỏng rát. Tôi đi xuống nhà. Căn phòng của ông vẫn còn sáng đèn. Tôi đến vừa lúc ông đang nấu mì. Tôi nhìn ông rồi nói: "Ðể cháu nấu cho". Ông ngượng nghịu: "Tôi vừa lên cơn sốt. Cảm xoàng thôi nhưng mệt". Ông nằm xuống, hơi thở khò khè: "Chiến tranh không chấm dứt được". "Thôi đừng nghĩ nữa. Chú ngủ một chút đi". Tôi cầm tay ông cho đến khi ông thiếp đi. Một cái gì nhồn nhột sau gáy. Tôi quay lại. Những hình đàn bà và trẻ con lơ đãng nhìn tôi. Nhưng miệng cười và ánh mắt lạnh buốt. Họ đang đến từ quá khứ đầy sẹo của ông và ở căn phòng này vĩnh viễn. Họ muốn tôi đi. Họ không muốn có tôi ở đây. Cái con bé của hiện tại và tương lai nhộn nhịp, bon chen.
Cô Diệu gửi hai đứa về quê. Cô cũng đi đâu đó. Hai ba ngày mới về một lần. Căn phòng vắng hơn, bụi mờ trên chiếc bàn gỗ cũ kỹ. Tôi cảm thấy đang rơi xuống vực thẳm tình cảm không lối thoát. Tôi tìm cách bỏ ra khỏi nhà vào bất cứ lúc nào để quên ông nhưng không được. Vân đèo tôi lang thang: "Ðừng ủ rũ nữa. Ðã lỡ yêu thì tiến tới. Nhưng tao thấy mày dở quá. Lão ấy không có gì chấm được". Tôi cau mày: "Tao chẳng chấm gì cả". "Nhưng mày học hành tụt dốc rồi". "Mặc kệ". Một chiếc Dream chạy qua văng bùn tung tóe: Vân chửi: "Mẹ kiếp. Vênh thế". Tôi thoáng thấy bóng cô Diệu ngồi đằng sau, đầy tình tứ. Tôi giục: "Chạy mau lên! Người quen". Vân cho xe rà sát chiếc Dream. Tôi gọi: "Cô Diệu". Cô quay lại. Người đàn ông quay lại. Cả hai đều tràn trề hạnh phúc. Tôi há hốc mồm. Anh ta không hề biết tôi. Cái anh chàng chị Nhân yêu đắm đuối. Cái anh chàng Hiền tôi đã đủ mọi lý lẽ để bảo vệ cho tình yêu trong sáng của họ. Anh ta vẫn nhăn nhở cười, vòng tay qua eo lưng cô Diệu siết chặt. Tôi kéo áo Vân: "Quẹo phải". "Sao?". Vân ngơ ngác: "Thằng bồ của chị tao". Tôi cúi gầm mặt cố không nghe tiếng cô Diệu gọi: "Nó không biết tao". "Sao mày không chửi nó?" Vân hậm hực: "Thôi kệ, mình là người có học". Nước mắt chảy xuống má tôi bỏng rát.
Tôi ngồi trước mặt cô Diệu. Tôi bảo: "Cô ạ, anh Hiền là bạn trai của chị Nhân". Cô Diệu tái mặt, lắp bắp: "Cô không biết, cô xin lỗi". Tôi khóc:
"Cô biết nhưng vẫn thích thế". "Không. Cô gặp anh ấy ở một bar rượu. Anh Hiền có kể về người yêu của anh ấy cho cô nghe. Nhưng cô không biết là Nhân. Cô chỉ là bạn". Tôi nhìn cô căm thù: "Cô nói dối". "Không - cô bật khóc, cô đến đó đón khách". Hai bàn tay cô run bắn, giọng lạc hẳn: "Cô đón khách. Và gặp anh Hiền cùng mấy người bạn. Như là những khách qua đường. Còn cô Nhân ăn đời ở kiếp. Tôi sợ hãi cắt ngang: "Cô làm thế lâu chưa?" "Lâu rồi. Trước khi đến đây giờ thành quen". Tôi bỏ về. Tôi gặp chị Nhân ở cầu thang, người sực nước hoa. Chị ôm chặt tôi vui vẻ thông báo: "Chị hạnh phúc quá. Hôm nay anh Hiền cầu hôn chị". Tôi lách người ra gắt: "Chị có biết anh Hiền hôm nay đi chơi gái không?". "Anh ấy có xin phép chị". Chị tỏ vẻ ngạc nhiên: "Công việc làm ăn cần phải thế nhiều lúc cũng buồn nhưng chị hiểu anh ấy chỉ yêu chị". "Thế lại khác". Một cái gì vỡ ra tê buốt ở ngực. Thất vọng và mệt mỏi. Nỗi trống trải giăng kín làm tôi không sao cử động nổi.
Sáng sớm mẹ vào phòng. Mẹ đưa cho tôi một phong bì và bảo: "Của chị Diệu. Chị ấy vừa dọn nhà đi". Bức thư vỏn vẹn vài chữ: "Cháu đã biết cô là ai nên cô phải đi. Cô biết cháu sẽ khinh cô lắm. Nhưng cuộc sống không phải là cái bánh để sẵn trên đĩa. Ai đói thì lấy xuống mà ăn. Cháu đừng cho Nhân biết gì hết. Ngàn lần xin lỗi cháu vì cháu là cô bé đáng yêu". Diệu. Chị Nhân chồm người qua: "Chị viết gì thế?" "à, chào hỏi lung tung ấy mà". Tôi xếp tập vở vào cặp, bỗng nhớ da diết hai con bé xinh như hai con búp bê nhưng không biết nói, biết cười. Vẫn ăn uống và lớn lên như thổi.
*​
Tôi chậm chạp bước xuống thang, miệng lẩm nhẩm theo nhịp chân bước: "Yêu, không yêu. Nói, không nói...". Bậc cuối cùng không nói. Nhưng tôi đã quyết định tự thoát khỏi mình. Tôi đẩy cửa. Ông đang ở trần, mặc quần đùi giải rút mầu trắng nom rất trẻ trung. Trên giá chiếc bình gốm hôm nay được ủ một tấm vải hoa mầu xám nhạt. Ông khẽ giật mình: "A, bé". Tôi ngồi xuống chiếc divan. Ðã hai ngày con mèo đen gầy guộc bỏ nhà đi mất. Vài hạt cơm khô còn vương vãi chỗ đĩa ăn cùng một bầy kiến lổm nhổm. Tôi kết luận: "Căn phòng thiếu bàn tay phụ nữ". Ông đề nghị lần đầu tiên sau nhiều ngày quen biết: "Cô ngồi mẫu cho tôi nhé". Ông lấy toile đặt lên giá. Tôi im lặng. Một lúc, tôi lí nhí: "Sao chú không lấy vợ. Không ai sống mãi với quá khứ được". Ông nhìn tôi không nói. Tôi nhắc lại cầu khẩn: "Chú lấy vợ đi". Ông cười: "Ai thèm yêu tôi". "Có". Tôi tiến lại gần ông tay chân lạnh buốt. Ngực đánh trống liên hồi. Tôi đưa tay vuốt nhẹ bờ vai vẫn còn săn chắc của ông, cảm nhận cái rùng mình rất khẽ. "Có người yêu chú lắm". Trong đầu thoáng qua một ý nghĩ: "Anh ấy chưa già. Chưa già như mọi người tưởng". Tôi quỳ xuống, úp mặt vào hai bàn tay đầy mùi sơn dầu của ông. Ông nâng tôi dậy ghì chặt vào lòng. Khi nút áo cuối cùng bung ra, ngực tôi đau buốt. Tôi nhắm chặt mắt. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng. Mẹ ơi, khi yêu trên đời chẳng còn gì là có lý cả. Mọi giáo huấn của mẹ chui lọt qua tai mất rồi.
Ông chợt lùi phắt lại, cái hôn bay lơ lửng trong gió và lọt thỏm xuống sàn nhà. Ông run rẩy: "Em còn trẻ quá. Tôi thì già rồi". "Có sao đâu". "Dư luận. Tương lai. Còn phải học hành và lấy tấm chồng cho ra nhẽ. Còn ba mẹ em nữa". "Em yêu anh". Người nào đó trong tôi thét lên "Dư luận không cho phép" - Ông tuyệt vọng: "Em phải giữ cho em". Tôi cắn chặt môi: "Anh hèn lắm". Tôi cẩn thận gài lại từng nút áo: "Chú hèn lắm". Ðầu tôi vỡ tung. Thất vọng và đau đớn. Tôi muốn chết quách đi cùng những ảo tưởng tình yêu xinh đẹp mà tôi dành cho ông. Nhưng sau cùng tôi đã không chết. Tôi lặng lẽ rời khỏi căn phòng có chiếc bình gốm xanh mầu ngọc bích và lỉnh kỉnh các loại mặt đàn bà, trẻ con lạnh buốt. Tôi nghĩ chắc mẹ hài lòng tôi. Một con bé trinh trắng ít đi chơi và về nhà đúng giờ vào bất cứ lúc nào.
*​
Mẹ cằn nhằn: "Căn nhà này không hợp hướng. Không cho thuê được. Ai đến rồi cũng đi". Tôi bỏ chạy xuống nhà sau. Cánh cửa mở toang hoác. Ðồ đạc dọn đi, chỏng chơ chiếc giường và chiếc bàn gỗ cũ mèm. Một bức tranh lật úp vào tường. Tôi giở ra. Bức tranh vẽ tôi của đêm trước, ngây thơ và đau đớn. Bên dưới đề: "Em còn trẻ con lắm" với chữ ký loằng ngoằng như người đang lội bom. Tôi nặng nề mang nó lên lầu, treo ở đầu giường như để thờ phụng một mối tình đầu rất đẹp của mình.
Tôi lao vào học để quên. Chiều tối lại cùng vài đứa bạn kéo nhau vào quán cà-phê. Tôi thấy nhẹ nhõm và trẻ trung, cái bầu không khí này tôi đã bỏ quên một thời gian rất lâu. Tôi ngắm anh chàng có chiếc răng khểnh non tơ đang ba hoa chích chòe ở góc kia, thấy cũng dễ thương và đáng yêu hơn trước đây tôi nghĩ. Tự nhiên thầm cảm ơn ông. Vì ông đã giữ lại cho tôi những giây phút bình yên và trong sáng thế này.
Hai chị em vẫn ở trên gác. Ba mẹ tiếp tục sống bên lề của hai đứa con. Chị Nhân mất dạng, khuya mới lao về, hạnh phúc chấp chới trên mắt. Ngôi nhà trở thành cái nhà trọ, cho chính mỗi người chủ của nó. Một cái nhà trọ khi mọi mối quan hệ gần với nhau lỏng lẻo.
Ðêm đêm những con mèo lại tuần hành trên mái tôn gọi nhau da diết. Trong đám đó chắc đã có thêm chú mèo mun gầy guộc bỏ nhà đi từ lúc nào đó; lâu lắm rồi. Như những kỷ niệm buồn cũng đã bỏ đi xa...
1996
 
B

bupbe ketoan

Guest
19/8/10
4
0
0
ca mau
bupbe ketoan tang cac ban ketoan mot bai tho nha"tu lam do"...cho ý kiến nha..
Hoà minh vào thế giới bao la mới thấy mình chỉ là một hạt cát
Giữa xã hội đời thường mới thấy mình quá nhỏ nhoi
Tôi ước tôi mơ giống như nhân loại....
Tôi tự hào vì tôi mãi là tôi..
Củng biết ghét biết yêu như bao nhiêu người khác
Củng có trái tim khao khát yêu thương
Một tình yêu bình dị giữa đời thường
Nhưng là cả một đời tôi ao ước
Người tôi yêu không giàu sang,chức tước
Nhưng có tấm lòng tha thiết yêu tôi
Nếu đả yêu nhau xin đưng để sầu,để khổ
Để mắt hoen sầu ngấn lệ suốt đêm thâu
Hảy chấp cánh cho tình yêu vỉnh cửu
Mải bên nhau dẩu muôn vạn nổi sầu.....
 

Xem nhiều

Webketoan Zalo OA