Nhận định về việc đầu tư vào các công ty Chứng khoán
Trong thời gian gần đây bùng nổ việc thành lập nhiều công ty chứng khoán mới, đồng thời cổ phiếu của các công ty chứng khoán mới và cũ trở nên có giá trị nhiều hơn trước, phân tích về hiện tượng này như sau :
- Môi trường đầu tư chứng khoán đã được cải thiện đột biết cùng với sự ra đời của nhiều giải pháp phát triển thị trường. Quy mô thị trường tăng nhanh cùng với sự gia tăng đột biến các dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước và ngoài nước.
- Ngành chứng khoán trở nên là 1 ngành kinh tế đang có nhiều lợi thế kinh doanh so với các ngành kinh tế khác. Tỷ suất lợi nhuận của các công ty kinh doanh chứng khoán rõ ràng cao hơn so với các doanh nghiệp ở các ngành kinh tế khác ( nếu so sánh về thời gian hoạt động ). Một vài công ty chứng khoán đã thu được lợi nhuận siêu ngạch. Tuy nhiên nếu so sánh về hiệu quả đầu tư chứng khoán đối với những cá nhân đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp thì tỷ suất lợi nhuận của các công ty chứng khoán còn ở mức khiêm tốn.
- Việc thành lập công ty chứng khoán đã có lợi cho các cổ đông sáng lập về nhiều mặt. Chẳng hạn đối với các tổ chức chứng khoán do Ngân hàng thành lập thì nó đã hỗ trợ cho ngân hàng ở khâu cho vay tín dụng, huy động các nguồn vốn nhàn rỗi, kinh doanh trái phiếu....
- Việc thành lập công ty chứng khoán trong thời điểm hiện nay để tranh thủ thời cơ khi Việt Nam bắt đầu gia nhập WTO, khi tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh với việc đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty nhà nước - Có thể nói là sẽ xuất hiện nhiều cổ phiếu chiến lược trong các năm 2007, 2008, 2009.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt thuận lợi, các công ty chứng khoán đã, đang và sẽ phải đối mặt với rất nhiều thách thức :
- Nguồn nhân lực chất lượng cao cung cấp cho các công ty chứng khoán là rất khan hiếm. Khó khăn này không chỉ các công ty chứng khoán gặp phải mà ngay cả các Quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động tại VN cũng gặp khó khăn lớn. Trước mắt lương cao chưa thể giải quyết ngay được việc tìm kiếm nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Các nghiệp vụ quan trọng của công ty chứng khoán như tự doanh, tư vấn, bảo lãnh phát hành....nói chung là đang còn thiếu và yếu. Sự khiếm khuyết này không chỉ thể hiện ở hàng ngũ nhân viên mà còn ở ngay hàng ngũ lãnh đao với các chức danh chủ chốt như Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty chứng khoán còn chưa đạt yêu cầu, thậm chí năng lực điều hành còn rất yếu.
- Nhìn tổng thể thì hoạt động của các công ty chứng khoán còn rất đơn điệu, thể hiện :
+ Hoạt động môi giới là khâu đơn giản nhất song hệ thống phần mềm của các nhiều công ty chứng khoán còn đơn điệu, chưa phục vụ tốt cho khách hàng. Chẳng hạn khách hàng không thể dùng internet để biết được số dư tài khoản của mình hay những thông tin xác nhận các lệnh mua bán, số dư tài khoản....Chính vì vậy đa phần các tổ chức nước ngoài chưa thể tin tưởng để thực hiện dịch vụ lưu ký tại công ty chứng khoán, họ chấp nhận lưu ký tại các ngân hàng nước ngoài với số phí cao hơn nhiều.
+ Hoạt động tư vấn cổ phần hoá và đại lý bán cổ phần tại DNNN cổ phần hoá : Rất nhiều công ty thực hiện mảng dịch vụ này, tuy nhiên mảng dịch vụ này hiện nay chưa cần chất lượng dịch vụ cao mà chủ yếu để làm thủ tục cổ phần hoá. Nhiều DNCPH chưa đòi hỏi dịch vụ cao mà chỉ làm dịch vụ theo yêu cầu.
+ Hoạt động tư vấn bảo lãnh phát hành đã nở rộ trong năm 2006, tuy nhiên chỉ mới có vài công ty chứng khoán thực hiện được thành công. có vài trường hợp bảo lãnh phát hành chưa thành công và đã gặp rủi ro.
+ Hệ thống khách hàng là những nhà đầu tư chiến lược hay nhà đầu tư tổ chức đối với hệ thống các công ty chứng khoán còn chưa nhiều và chưa thê chiếm được lòng tin cao đói với các nhà đầu tư. Đặc điểm này rất quan trọng cho nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Kinh nghiệm các nước cho thấy, khi tổ chức phát hành cần tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược thì những công ty chứng khoán có uy tín sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu. Tuy nhiên đây là hạn chế khách quan khi mà TTCK VN còn nhỏ và mới ở gian đoạn chuẩn bị hội nhập.
- Các công ty chứng khoán còn phải đương đầu với thách thức là việc chảy máu chất xám hay nguồn nhân lực chủ chốt bị biến động. Những cán bộ chứng khoán giỏi luôn nhận được những lời mời có giá trị cao hơn từ các tổ chức chứng khoán và quỹ đầu tư khác. Những cán bộ này còn muốn được tự khẳng định mình, được độc lập....Cho nên duy trì ổn định và phát triển nguồn nhân lực là việc không đơn giản chút nào. Đây là rủi ro không nhỏ cần tính tới khi đầu tư vào công ty chứng khoán.
- Đặc điểm của công ty chứng khoán là 1 đơn vị tư vấn, tài sản quan trọng chủ yếu là con người. Qui mô vốn cũng quan trọng nhưng chưa thể là nhân tố đảm bảo quyết định. Các cổ đông sáng lập cũng đóng vai trò rất quan trọng. Nhìn vào cơ cấu cổ đông sáng lập để có thể phân tích về tính bền vững và ổn định của doanh nghiệp.
Đầu tư nước ngoài vào các công ty chứng khoán :
- Luật Chứng khoán mới ban hành cho phép tổ chức nước ngoài được thành lập chi nhánh công ty chứng khoán tại VN. Luật Đầu tư và cam kết WTO cho phép người nước ngoài được nắm giữ 49% vốn điều lệ, sau 5 năm thì tỷ lệ này sẽ bị phá bỏ và cho phép sở hữu nước ngoài nắm đến 100% vốn. Còn về đầu tư FDI chưa nói cụ thể, song sẽ bị hạn chế và có thể vẫn có trường hợp nhà đầu tư nước ngoài được thành lập công ty chứng khoán 100% vốn FDI.
- Các tập đoàn chứng khoán đa quốc gia chưa muốn thành lập công ty 100% vốn FDI hay tham gia sở hữu 49% tại công ty chứng khoán do TTCK của ta còn nhỏ . Mói đây có việc thành lập văn phòng đại diện của Nomura Hong kong tại VN, Nomura đã có quá nhiều kinh nghiệm tại VN nên việc thành lập văn phòng chỉ xúc tiến việc nghiên cứu đầu tư vào các doanh nghiệp lớn tại VN.
- Một vài tập đoàn chứng khoán đa quốc gia ngỏ ý trở thành đối tác chiến lược của các ngân hàng quốc doanh sau khi cổ phần hoá và cam kết hợp tác với ngân hàng và công ty chứng khoán ( con) về lĩnh vực chứng khoán và có thể mở ra khả năng ra đời công ty chứng khoán liên doanh trong 5 năm tới . Đây là xu hướng tốt nhằm giúp cho các công ty chứng khoán có những đối tác chiến lược lớn.
- Một số công ty chứng khoán thuộc qui mô vừa trong khu vực cũng đang nghiên cứu tìm đối tác Việt Nam để tham gia hợp tác kinh doanh.
- Các Quỹ đầu tư chứng khoán tham gia đầu tư vào các công ty chứng khoán còn hạn chế và nhìn chung là đầu tư có lựa chọn. Một vài Quỹ muốn thành lập công ty riêng hoặc công ty mà họ nắm giữ cổ phần chi phối.
Nhìn nhận về thương hiệu của các công ty chứng khoán :
- Nếu nói về nội lực của các công ty chứng khoán ( quản trị doanh nghiệp ) thì đa phần các công ty chứng khoán chưa có thương hiệu ấn tượng. đa phần các nhà đầu tư và nhất là nhà đầu tư cá nhân còn than phiền nhiều về chất lượng dịch vụ của các công ty chứng khoán.
- Một vài công ty chứng khoán đã xây dựng được thương hiệu, nhưng chưa phải là những thương hiệu mạnh như thương hiệu của các Bluechip là các công ty niêm yết
- Tuy nhiên việc huy động vốn để thành lập công ty chứng khoán, đê nâng vốn điều lệ trong giai đoạn hiện nay là tương đối dễ dàng thuận lợi, tại sao vậy ?
+ Do các công ty chứng khoán gặp thời ;
+ Do lợi thế của công ty chứng khoán là nắm được nhiều thông tin nên 1 vài công ty năng động đã phát huy triệt để hoạt động tự doanh, từ đó tạo ra những khoản lợi nhuận khổng lỗ ( nếu như so sánh với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có qui mô vốn giống nhau).
+ Do lợi thế của cổ đông sáng lập;
+ Một phần là do hiệu ứng đầu tư bầy đàn
Hệ thống công ty chứng khoán sẽ gặp được thuận lợi khách quan trong bao lâu nữa :
- Trong 5 năm nữa, tiến trình cổ phần hoá mới cơ bản hoàn thành; Còn tiếp tục cổ phần hoá những doanh nghiệp lớn kinh doanh hiệu quả, còn tiếp tục bán bớt cổ phần nhà nước, còn tiếp tục xu hướng chuyển động của doanh nghiệp OTC sang niêm yết, đây là những tiền đề hết sức thuận lợi cho công ty chứng khoán. Nếu công ty chứng khoán nào hoạt động tự doanh tốt thì sẽ còn nhiều cơ hội để đạt lợi nhuận siêu ngạch
- Sau 5 năm nữa các công ty chứng khoán sẽ chuyển sang 1 giai đoạn kém thuận lợi hơn, mức độ cạnh tranh lớn hơn :
+ Những thuận lợi khách quan giảm đi
+ Sẽ nhiều công ty chứng khoán hơn, trong đó có 1 số công ty sức cạnh tranh mạnh hơn do mở được hướng hợp tác với đối tác chiến lược hay qui mô vốn tăng nhiều so với hiện nay
+ Những công ty chứng khoán không thể tổ chức quản trị doanh nghiệp tốt, không mạnh về nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ gặp khó khăn trong hoạt động và tình trạng kinh doanh thua lỗ, hoặc không hiệu quả sẽ tăng cao hơn hiện nay .
+ Nguồn nhân lực bị ảnh hưởng mạnh bởi việc ra đời các công ty chứng khoán nước ngoài
Việc thành lập công ty chứng khoán mới có khó khăn hay không ?
- Không hề khó khăn, kể cả trong tương lai vì theo Luật Chứng khoán mới được Quốc Hội ban hành, điều kiện để thành lập công ty chứng khoán là đơn giản hơn trước rất nhiều ( nghị định 144).
- Có quan điểm cho rằng cứ thành lập công ty chứng khoán đi , sau khi mở cửa thì sẽ bán lại công ty cho nhà đầu tư nước ngoài với giá cao, quan điểm này nên xem xét thận trọng vì :
+ Nghị định 144 ( đang áp dụng và hết hiệu lực ngày 1/1/2007) có nội dung “ Tuỳ theo từng thời kỳ phát triển của TTCK và căn cứ vào chiến lược phát triển TTCK mà UBCKNN xét việc cấp phép thành lập công ty chứng khoán” , căn cứ vào nội dung này thì UBCKNN có thể xem xét việc cấp phép hay không cấp phép. Tuy nhiên điều khoản này đã bị loại bỏ trong các làn soạn thảo dự luật Chứng khoán và khi ban hành Luật Chứng khoán thì không còn tồn tại nội dung này,
+ Việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ căn cứ vào hiệu quả hoạt động doanh nghiệp mà không căn cứ vào quote từ cơ quan quản lý nhà nước.
Trên đây là bài phân tích của VF VAFI để các hội viên tham khảo. Các bài tư vấn của VAFI chỉ dành cho Hội viên VAFI, và không được phổ biến qua phương tiện truyền thông, báo chí hay các trang Web... Việc sử dụng các tài liệu trong mục tư vấn cần được sự đồng ý của VF VAFI.
HIỆP HỘI CÁC NHÀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH VIỆT NAM (VAFI)