Chiều 18-9, TAND TP.HCM đã mở phiên tòa hành chính xét xử vụCông ty Cổ phần Thương mại Phú LễViệt Nam kiệnCục Thuế TP.HCM. Công ty Phú Lễ khởi kiện vì bị Cục ThuếTP truy thu và phạt gần 5,6 tỉ đồng thuế. Vụ việc này xuất phát từ sự lấn cấn trong cách hiểu giữa “khuyến mãi” và “chiết khấu thương mại”.
Công ty chiết khấu, bên thuế không chịu
Phú Lễ chuyên bán sỉ rượu nếp và rượu chuối hột, có hợp đồng với nhà phân phối quy định các tỉ lệ chiết khấu nếu nhà phân phối đạt điều kiện. Cụ thể là nhà phân phối mua hàng thì hưởng chiết khấu 5%, cộng thêm chiết khấu 1% hằng tháng nếu nhà phân phối đạt các chỉ tiêu mua vào - bán ra của tháng (trên 100 triệu đồng).
Theo ý kiến cá nhân tôi thì sự việc rắc rối xuất phát từ việc dùng từ . Công Ty Phú Lễ thì cho rằng đó là chiết khấu thương mại nên cơ quan thuế dựa trên biểu hiện trên việc doanh thu giảm xuống trong khi số lượng bán ra không giảm, và cho đó là giảm giá, mà giảm giá là một nội dung trong hoạt động khuyến mại- mà Công Ty Phú Lễ không đăng ký khuyến mại nên:
1. Không được chấp nhận chi phí được trừ cho các khoản mà Công Ty Phú Lễ coi rằng đó là chiết khấu thương mại.
2. Vì mặt hàng rượu không được phép quảng cáo, khuyến mại nên các chi phí liên quan đến hoạt động được xem là khuyến mãi không được khấu trừ TGTGT và không được tính vào chi phí được trừ
Tôi có mộtt số nhận định sau, tôi nghĩ rằng có thể trong suy nghĩ và suy luận của tôi còn có điều gì đó còn thiếu sót mà tôi không nhìn ra, mời các bạn trao đổi thêm
PHẦN 1: Về việc CHIẾT KHẤU được xem là GIẢM GIÁ nên xem đây là KHUYẾN MẠI
Thứ nhất:Theo tôi, từ chiết khấu được sử dụng trong thoả thuận hợp đồng với nhà phân phối theo tôi đây thuộc về chính sách bán hàng, chiến lược bán hàng, chiến lược về giá trong khi thoả thuận hợp đồng. Ở Phú Lễ nó áp dụng đối với tất cả các khách hàng là nhà phân phối tuỳ theo sản lượng theo chu kỳ . Nó có tác dụng khuyến khích người bán hàng tăng doanh số để có thu nhập tang thêm và DN có lợi nhuận tang thêm. Nếu nói trong một phạm vi hẹp giữa Công Ty với nhân viên bán hàng thì mức 5% đầu tiên được hưởng đó là doanh số định mức, và các khoản tăng thêm là thu nhập theo doanh số. Và đây thì ai cũng hiểu là chi phí bán hàng thông thường chứ không là chi phí bán hàng theo chương trình khuyến mại
Thứ hai: Nếu xem xét đây là chính sách khuyến mại, giảm giá do khuyến mại thì phải xem xét thế nào là giảm giá. Theo tôi giảm giá tức là cùng một sản phẩm HHDV tôi sẽ phải trả ít tiền hơn để có được và ngay ở thời điểm mua HHDV tôi đã được hưởng sự giảm giá. Vì vậy việc Công Ty Phú Lễ có dùng đúng hay dùng sai từ thì về bản chất trong trường hợp này cũng không phải là giảm giá. Mà khi xử lý công việc thì cuối cùng chúng ta vẫn phải xét đúng bản chất chứ không dựa vào hình thức, hay cách dùng từ theo ý người muốn diễn giải theo hướng nào.
Thứ ba: Đem sự việc này , chính sách bán hàng này kết hợp với một số ý trong một ví dụ cơ bản trong kế toán quản trị thường hay nhắc đến đó là số dư đảm phí. Theo khái niệm này ta hiểu rằng ở một mức sản lượng nào đó, lợi nhuận tăng thêm sau điểm hoà vốn thì lợi nhuận tăng thêm sẽ là doanh thu trừ đi biến phí, Như vậy có khi giá bán< giá thành trước điểm hoà vốn. Nhìn vẻ bề ngoài có vẻ là vô lý nhưng thực tế lợi nhuận lại tăng thêm. Trở lại vấn đề liên quan đến vụ Phú Lễ và việc chính sách bán hàng này có coi là giảm giá và phải đăng ký là khuyến mại hay không. Rõ ràng đây là một cơ hôi bán hàng thông thường chứ không phải là khuyến mại.
Thứ tư: Theo NĐ 37 quy định về khuyến mại thì hình thức chiết khấu của Cty Phú Lễ không rơi vào quy định cụ thể của 1 trong các hìnth hức khuyến mại sau: ( từ điều 7 đến điều 12 của NĐ 37).
" Điều 7. Đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền
Điều 8. Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền; không kèm theo việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
Điều 9. Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, cung ứng dịch vụ trước đó
Điều 10. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ
. Điều 11. Bán hàng, cung ứng địch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố
. Điều 12. Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự chương trình khuyến mại mang tính may rủi"
Giả sử lập luận theo hướng khoản chiết khấu này là một hình thức khuyến mại phải đăng ký với Sở Thương Mại ( Nay là Sở Công Thương ) thì theo điều 19 và điều 20, việc thực hiện hợp đồng của Công Ty Phú Lễ với nhà phân phối muốn chấm dứt trước thời gian hiệu lực của hợp đồng thì phải được cớ quan nhà nước xác nhận mởi được chấm dứt. Mà điều này là vô lý nên giả định này không tồn tại.
Thứ 5: Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mai, là thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Trong khi đó lại là một thoả thuận mà 2 bên có nghĩa vụ thực hiện. như vậy khi đem 1 điều khoản trong cam kết thực hiện hợp đồng để xem đó là một hoát động khuyến mại liệu có phù hợp chăng?
PHẦN 2: Chi phí bán hàng được xem là chi phí quảng cáo, khuyến mại.
Cty Phú Lễ ( và có lẻ nhiều Công Ty khác cũng vậy) thường hay in tên Công Ty, in Logo của Công Ty để phát tặng, cho không để quảng bá thường hiệu. Hoặc có khi hổ trợ chi phí cho các nhà phân phối sản phẩm của mình. Hai hình thức này có gì khác nhau? Đó là:
+ Nếu Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền; không kèm theo việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ è đây là một hình thức khuyến mại ( thêo điiều 8 của NĐ 37). Và là khuyến mại nên không chịu thuế GTGT.
+ Nếu chi hổ trợ cho nhà phân phối bằng tiền thì thủ tục là lập phiếu thu- chi để ghi nhận doanh thu- chi phí.
+ Nếu chi hổ trợ bằng hiện vật thì được xem như biếu tặng, lập hoá đơn và chịu thuế GTGT.
Theo nội dung tôi nắm được thì các hàng hoá làm quà tặng thì Công Ty Phú Lễ đã lập hoá đơn, nộp thuế GTGT đầu ra, khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Nhưng chi phí và thuế GTGT này bị bác vì đại diện cho Cục Trưởng Cục Thuế TPHCM cho rằng quà tặng này không liên quan đến sản xuất kinh doanh nên loại thuế GTGT đầu vào lẫn chi phí được trừ. Còn tại sao không liên quan đến sản xuất kinh doanh thì chỉ là cảm nhận.
Đây là vấn đề hầu hết các DN đều gặp khi bị loại trừ chi phí. Mà tại sao như vậy: Vì cơ quan thuế ( cũng như phần đông kế toán) chỉ xem sổ sách kế toán, hoá đơn ,chứng từ kế toán chỉ là để trình ra cho có khi cơ quan thuế yêu c mà quên đi một khái niệm gốc của chứng từ kế toán là để ghi nhận nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Việc chi hổ trợ này nếu muốn loại trừ thì cơ quan thuế phải chứng minh rằng NVKTPS này không phải là NVKTPS trong hoạt động của DN. Nó phải giống như chứng minh việc tặng quà cho nhân viên không liên quan đến SXKD, vì bản chất của chi tiêu này là chi phí của nhân viên và Công ty được xem là NTD cuối cùng nên thuế GTGT đầu vào không được trừ . Như vây để loại chi phí này phải chứng minh rằng nó không thực tế phát sinh ( vì đương nhiên nó phải phục vụ cho sxkd rồi, vì không lẻ DN thành lập ra để mua hàng tặng không ấy à), không thể giả định rằng DN mua hoá đơn hoặc mua hàng tiêu dùng gia đình đem vào tính chi phí của công ty để loại. Mà chị được loại nêú có chứng cứ chứng minh rằng hoá đơn đó là hoá đơn bất hợp hợp pháp.
Công ty chiết khấu, bên thuế không chịu
Phú Lễ chuyên bán sỉ rượu nếp và rượu chuối hột, có hợp đồng với nhà phân phối quy định các tỉ lệ chiết khấu nếu nhà phân phối đạt điều kiện. Cụ thể là nhà phân phối mua hàng thì hưởng chiết khấu 5%, cộng thêm chiết khấu 1% hằng tháng nếu nhà phân phối đạt các chỉ tiêu mua vào - bán ra của tháng (trên 100 triệu đồng).
Theo ý kiến cá nhân tôi thì sự việc rắc rối xuất phát từ việc dùng từ . Công Ty Phú Lễ thì cho rằng đó là chiết khấu thương mại nên cơ quan thuế dựa trên biểu hiện trên việc doanh thu giảm xuống trong khi số lượng bán ra không giảm, và cho đó là giảm giá, mà giảm giá là một nội dung trong hoạt động khuyến mại- mà Công Ty Phú Lễ không đăng ký khuyến mại nên:
1. Không được chấp nhận chi phí được trừ cho các khoản mà Công Ty Phú Lễ coi rằng đó là chiết khấu thương mại.
2. Vì mặt hàng rượu không được phép quảng cáo, khuyến mại nên các chi phí liên quan đến hoạt động được xem là khuyến mãi không được khấu trừ TGTGT và không được tính vào chi phí được trừ
Tôi có mộtt số nhận định sau, tôi nghĩ rằng có thể trong suy nghĩ và suy luận của tôi còn có điều gì đó còn thiếu sót mà tôi không nhìn ra, mời các bạn trao đổi thêm
PHẦN 1: Về việc CHIẾT KHẤU được xem là GIẢM GIÁ nên xem đây là KHUYẾN MẠI
Thứ nhất:Theo tôi, từ chiết khấu được sử dụng trong thoả thuận hợp đồng với nhà phân phối theo tôi đây thuộc về chính sách bán hàng, chiến lược bán hàng, chiến lược về giá trong khi thoả thuận hợp đồng. Ở Phú Lễ nó áp dụng đối với tất cả các khách hàng là nhà phân phối tuỳ theo sản lượng theo chu kỳ . Nó có tác dụng khuyến khích người bán hàng tăng doanh số để có thu nhập tang thêm và DN có lợi nhuận tang thêm. Nếu nói trong một phạm vi hẹp giữa Công Ty với nhân viên bán hàng thì mức 5% đầu tiên được hưởng đó là doanh số định mức, và các khoản tăng thêm là thu nhập theo doanh số. Và đây thì ai cũng hiểu là chi phí bán hàng thông thường chứ không là chi phí bán hàng theo chương trình khuyến mại
Thứ hai: Nếu xem xét đây là chính sách khuyến mại, giảm giá do khuyến mại thì phải xem xét thế nào là giảm giá. Theo tôi giảm giá tức là cùng một sản phẩm HHDV tôi sẽ phải trả ít tiền hơn để có được và ngay ở thời điểm mua HHDV tôi đã được hưởng sự giảm giá. Vì vậy việc Công Ty Phú Lễ có dùng đúng hay dùng sai từ thì về bản chất trong trường hợp này cũng không phải là giảm giá. Mà khi xử lý công việc thì cuối cùng chúng ta vẫn phải xét đúng bản chất chứ không dựa vào hình thức, hay cách dùng từ theo ý người muốn diễn giải theo hướng nào.
Thứ ba: Đem sự việc này , chính sách bán hàng này kết hợp với một số ý trong một ví dụ cơ bản trong kế toán quản trị thường hay nhắc đến đó là số dư đảm phí. Theo khái niệm này ta hiểu rằng ở một mức sản lượng nào đó, lợi nhuận tăng thêm sau điểm hoà vốn thì lợi nhuận tăng thêm sẽ là doanh thu trừ đi biến phí, Như vậy có khi giá bán< giá thành trước điểm hoà vốn. Nhìn vẻ bề ngoài có vẻ là vô lý nhưng thực tế lợi nhuận lại tăng thêm. Trở lại vấn đề liên quan đến vụ Phú Lễ và việc chính sách bán hàng này có coi là giảm giá và phải đăng ký là khuyến mại hay không. Rõ ràng đây là một cơ hôi bán hàng thông thường chứ không phải là khuyến mại.
Thứ tư: Theo NĐ 37 quy định về khuyến mại thì hình thức chiết khấu của Cty Phú Lễ không rơi vào quy định cụ thể của 1 trong các hìnth hức khuyến mại sau: ( từ điều 7 đến điều 12 của NĐ 37).
" Điều 7. Đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền
Điều 8. Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền; không kèm theo việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
Điều 9. Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, cung ứng dịch vụ trước đó
Điều 10. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ
. Điều 11. Bán hàng, cung ứng địch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố
. Điều 12. Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự chương trình khuyến mại mang tính may rủi"
Giả sử lập luận theo hướng khoản chiết khấu này là một hình thức khuyến mại phải đăng ký với Sở Thương Mại ( Nay là Sở Công Thương ) thì theo điều 19 và điều 20, việc thực hiện hợp đồng của Công Ty Phú Lễ với nhà phân phối muốn chấm dứt trước thời gian hiệu lực của hợp đồng thì phải được cớ quan nhà nước xác nhận mởi được chấm dứt. Mà điều này là vô lý nên giả định này không tồn tại.
Thứ 5: Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mai, là thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Trong khi đó lại là một thoả thuận mà 2 bên có nghĩa vụ thực hiện. như vậy khi đem 1 điều khoản trong cam kết thực hiện hợp đồng để xem đó là một hoát động khuyến mại liệu có phù hợp chăng?
PHẦN 2: Chi phí bán hàng được xem là chi phí quảng cáo, khuyến mại.
Cty Phú Lễ ( và có lẻ nhiều Công Ty khác cũng vậy) thường hay in tên Công Ty, in Logo của Công Ty để phát tặng, cho không để quảng bá thường hiệu. Hoặc có khi hổ trợ chi phí cho các nhà phân phối sản phẩm của mình. Hai hình thức này có gì khác nhau? Đó là:
+ Nếu Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền; không kèm theo việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ è đây là một hình thức khuyến mại ( thêo điiều 8 của NĐ 37). Và là khuyến mại nên không chịu thuế GTGT.
+ Nếu chi hổ trợ cho nhà phân phối bằng tiền thì thủ tục là lập phiếu thu- chi để ghi nhận doanh thu- chi phí.
+ Nếu chi hổ trợ bằng hiện vật thì được xem như biếu tặng, lập hoá đơn và chịu thuế GTGT.
Theo nội dung tôi nắm được thì các hàng hoá làm quà tặng thì Công Ty Phú Lễ đã lập hoá đơn, nộp thuế GTGT đầu ra, khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Nhưng chi phí và thuế GTGT này bị bác vì đại diện cho Cục Trưởng Cục Thuế TPHCM cho rằng quà tặng này không liên quan đến sản xuất kinh doanh nên loại thuế GTGT đầu vào lẫn chi phí được trừ. Còn tại sao không liên quan đến sản xuất kinh doanh thì chỉ là cảm nhận.
Đây là vấn đề hầu hết các DN đều gặp khi bị loại trừ chi phí. Mà tại sao như vậy: Vì cơ quan thuế ( cũng như phần đông kế toán) chỉ xem sổ sách kế toán, hoá đơn ,chứng từ kế toán chỉ là để trình ra cho có khi cơ quan thuế yêu c mà quên đi một khái niệm gốc của chứng từ kế toán là để ghi nhận nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Việc chi hổ trợ này nếu muốn loại trừ thì cơ quan thuế phải chứng minh rằng NVKTPS này không phải là NVKTPS trong hoạt động của DN. Nó phải giống như chứng minh việc tặng quà cho nhân viên không liên quan đến SXKD, vì bản chất của chi tiêu này là chi phí của nhân viên và Công ty được xem là NTD cuối cùng nên thuế GTGT đầu vào không được trừ . Như vây để loại chi phí này phải chứng minh rằng nó không thực tế phát sinh ( vì đương nhiên nó phải phục vụ cho sxkd rồi, vì không lẻ DN thành lập ra để mua hàng tặng không ấy à), không thể giả định rằng DN mua hoá đơn hoặc mua hàng tiêu dùng gia đình đem vào tính chi phí của công ty để loại. Mà chị được loại nêú có chứng cứ chứng minh rằng hoá đơn đó là hoá đơn bất hợp hợp pháp.