Trong hệ thống kế toán tài chính thì chi phí kinh doanh được phân loại thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
Chi phí sản phẩm là chi phí phát sinh gắn liền một cách trực tiếp với hoạt động sản xuất sản phẩm, cung cấp dịch vụ và hạch toán vào nhóm TK 62X, còn với DNTM thì chi phí sản phẩm là các chi phí ghi vào 156.
Chi phí thời kỳ là các chi phí không gắn với hoạt động sản xuất - dịch vụ và hạch toán vào 641, 642.
Các chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá mới hạch toán vào chi phí bán hàng. Trong công ty thương mại có nhiều chi phí liên quan đến hoạt động thương mại ở các khâu thu mua - bảo quản - tiêu thụ, nhưng chỉ chi phí ở khâu tiêu thụ mới hạch toán vào chi phí bán hàng.
Các chi phí quản lý chung và các chi phí chung liên quan đến toàn DN (đã nói chi phí chung liên quan đến toàn DN thì có nghĩa là không phải là sản xuất hay tiêu thụ nữa rồi) thì hạch toán vào 642.
Thực ra trong 641, 642 có nhiều chi phí mà trong quản trị người ta thường cố gắng tính toán theo từng sản phẩm, dịch vụ để đánh giá đúng đắn hơn về sản phẩm, dịch vụ. Ví dụ như chi phí nghiên cứu theo chế độ kế toán thì ghi vào 642, chỉ khi chi phí triển khai thoả mãn các tiêu chuẩn nhất định thì mới vốn hoá vào tài sản cố định vô hình để khấu hao dần.
Chẳng hạn một công ty dược phẩm trong rất nhiều dự án nghiên cứu phát triển thì có 1 dự án cho ra được 1 loại dược phẩm mới. Nếu tính đầy đủ chi phí từ khi nghiên cứu - triển khai là 1.000, nhưng chi phí triển khai chỉ được vốn hoá là 200, chi phí nghiên cứu được ghi vào 642 là 800. Trong trường hợp này để đánh giá phục vụ quản trị thì toàn bộ chi phí nghiên cứu + triển khai cần được vốn hoá và phân bổ vào chi phí của loại sản phẩm mới cho đến khi hết thời hạn bảo hộ độc quyền.
Hay chi phí cho một chương trình quảng cáo: Về mặt hạch toán thì ghi là chi phí thời kỳ (641) nhưng nếu nó liên quan đến 1 dòng sản phẩm riêng biệt thường đem lại lợi ích của cả các kỳ sau đó nên kế toán quản trị sẽ tính cho dòng sản phẩm nào gánh chịu chi phí này thôi, và cũng phân bổ theo thời gian dự kiến đem lại lợi ích của chương trình quảng cáo.