Bạn đọc lại hợp đồng ngoại của bạn xem có điều khoản giao dịch qua mail không? Nếu có điều khoản đồng ý giao dịch qua mail ấy thì ít nhất cũng phải bắt bên kia bồi thường phần nào thiệt hại chứ. Bên bạn chuyển tiền cho đối tác vào một tài khoản với tên chủ tài khoản khác mà ko nghi ngờ tí gì thì cũng hơi bị lạ đấy. Lệnh chuyển tiền quốc tế cũng vẫn có tên chủ tài khoản cơ mà.
Vụ này muốn được vào chi phí khác thì có lẽ ít nhất phải có biên bản làm việc của 2 bên xác nhận là bên kia bị hack mail, mà hacker đã gửi mail đó cho bên bạn chứ không phải bên kia gửi. Còn viêc chứng minh chuyển tiền đã có lệnh chuyển tiền quốc tế là bằng chứng rồi. Thuế không thể bắt bẻ được. Mình chỉ hơi lăn tăn là thường kinh doanh thương mại quốc tế thì toàn làm qua mail, vậy thì cái biên bản vụ việc 2 bên đấy chắc bạn ko làm qua mail được, có lẽ phải đóng dấu đàng hoàng 2 bên, ko gặp được thì chuyển phát quốc tế thôi. Hơi tốn tiền tí ở phí chuyển phát quốc tế. Biên bản vụ việc cũng nên làm song ngữ (Tiếng Anh - Tiếng Việt). Nếu công ty bạn có báo công an nước đó để giải quyết vụ lừa đảo thì càng tốt, có chứng từ gì cứ đưa vào hết hồ sơ.