Cứ tưởng là bão vào Đà Nẵng, mà không phải. Ở Đà nẵng trời ẩm, xám, thỉnh thoảng lại mưa. Ở ngoài rìa của cơn bão nhẹ. Có cảm giác là người ta khó chịu hơn với những trạng thái như vậy. Nghĩa là chờ đợi mà không biết là cơn bão có đến hay không nữa.
Ở Đà nẵng, không hiểu sao lại nhớ tới “còn hai con mắt khóc người một con, còn hai con mắt một con khóc người”. Đôi lúc thấy lời những bài hát của Trịnh Công Sơn mù mờ hết chỗ nói, ai còn hai con mắt, ai còn một con, còn một con gì. Trong tuyển tập 100 bài thơ tình hay nhất có bài thơ lục bát của Bùi Giáng với câu kết “còn hai con mắt một con khóc người”. Có lẽ Trịnh lấy ý tứ của Bùi, mà không biết có trích dẫn không. Ở nhà sách Nguyễn Huệ ở Sài Gòn có hẳn một giá sách nho nhỏ do Bùi Giáng dịch, một giá toàn những quyển nho nhỏ, truyện không ra truyện, tiểu luận không ra tiểu luận, những cuốn nho nhỏ về sự sống của Saint Exupery, của Andre Gide, cảm động, sâu sắc và thú vị hơn nhiều lần so với những nhan nhản Chicken Soup for the Soul bày trên một loạt giá dài ở bên trong.
Sài Gòn buổi chiều nắng nhạt và đầy gió. Giống mùa thu, mà không phải mùa thu. Vì không có cái hơi thở heo may se se lạnh của mùa thu. Có lẽ giống cái “mùa thu trong thi ca”- tuyển tập của Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn. Đọc nhạt huếch, không có hương vị gì, ngoại trừ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu và “Thơ tình cuối mùa thu” của Xuân Quỳnh. “Thời gian như là gió, mùa đi cùng tháng năm, tuổi theo mùa đi mãi, chỉ còn anh và em. Chỉ còn anh và em, cùng tình yêu ở lại- Kìa bao người yêu mới, đi qua cùng heo may.” Hai đoạn kết buồn thăm thẳm, se lạnh, dịu dàng và ngơ ngác như heo may cuối mùa thu vậy.
Sài Gòn gió. Lại nhớ đến “sống trong đời sống phải có một tấm lòng, để làm gì em biết không, để gió cuốn đi, để gió cuốn đi”. Có một tấm lòng để gió cuốn đi thì còn lại gì cho mình, cho người. Có đôi lúc mình có cảm giác như một cánh diều, mà đời và người như những cơn gió ùa đến đòi kéo mình đi, nếu mình để gió cuốn đi thì gió cuốn mình đi đâu. Gió đang thổi Sài Gòn là gió từ biển, mang hơi nước mát mẻ. Mà gió định cuốn tấm lòng đi đâu. Lang thang phiêu lãng đi đâu.
Tượng đài Trần Hưng Đạo ở Sài Gòn khác xa với Tượng Đài ở Nam Định. (Tượng) Trần Hưng Đạo ở Sài Gòn nhỏ nhỏ, thấp thấp, dáng vẻ vội vàng, dáng dấp không thể hiện cái uy của người đại tướng mà chỉ như là cái vẻ của một viên tướng tiên phong. Ở dưới chân tượng, từng đôi, từng đôi ôm ấp, vuốt ve, hôn hít vội vã như ngày mai ngày mốt là chia lìa vậy. Có một đôi hát rong rất quấy, cứ nhằm đôi nào đam mê nhất mà chĩa loa vào, hát cho tới khi được cho tiền mới thôi (lại đi tìm một đôi say đắm khác). Hình như chẳng ai để ý tới (tượng) Trần Hưng Đạo nữa. Chẳng ai còn “thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” nữa. Thì đã là mấy cuộc “bể dâu” rồi. Cư xá Brink, biệt động Sài Gòn đánh bom sập, nay lại nghênh ngang cái Park Hyatt, phải mấy trăm đô mới vào được. Tượng đài kỷ niệm trận đánh của Cư xá xem ra có vẻ rất đối lập với cái Park Hyatt, không thể ăn nhập được dù người ta có cố tình nhào nặn cái vẻ ngoài của tấm bia kỷ niệm trận đánh.
Buổi tối về khách sạn, đi qua sảnh, nghe một giai điệu quen quen. “I looked at the sky, running my hands, opened my eyes and I fell out of bed, hurting my head from what I’ve said…that the joke was on me, oh, no, that the joke was on me…”. Phải tới khi nào người ta mới biết những trải nghiệm của cuộc đời thực ra cũng chỉ là a joke on me mà thôi nhỉ.
Ở Đà nẵng, không hiểu sao lại nhớ tới “còn hai con mắt khóc người một con, còn hai con mắt một con khóc người”. Đôi lúc thấy lời những bài hát của Trịnh Công Sơn mù mờ hết chỗ nói, ai còn hai con mắt, ai còn một con, còn một con gì. Trong tuyển tập 100 bài thơ tình hay nhất có bài thơ lục bát của Bùi Giáng với câu kết “còn hai con mắt một con khóc người”. Có lẽ Trịnh lấy ý tứ của Bùi, mà không biết có trích dẫn không. Ở nhà sách Nguyễn Huệ ở Sài Gòn có hẳn một giá sách nho nhỏ do Bùi Giáng dịch, một giá toàn những quyển nho nhỏ, truyện không ra truyện, tiểu luận không ra tiểu luận, những cuốn nho nhỏ về sự sống của Saint Exupery, của Andre Gide, cảm động, sâu sắc và thú vị hơn nhiều lần so với những nhan nhản Chicken Soup for the Soul bày trên một loạt giá dài ở bên trong.
Sài Gòn buổi chiều nắng nhạt và đầy gió. Giống mùa thu, mà không phải mùa thu. Vì không có cái hơi thở heo may se se lạnh của mùa thu. Có lẽ giống cái “mùa thu trong thi ca”- tuyển tập của Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn. Đọc nhạt huếch, không có hương vị gì, ngoại trừ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu và “Thơ tình cuối mùa thu” của Xuân Quỳnh. “Thời gian như là gió, mùa đi cùng tháng năm, tuổi theo mùa đi mãi, chỉ còn anh và em. Chỉ còn anh và em, cùng tình yêu ở lại- Kìa bao người yêu mới, đi qua cùng heo may.” Hai đoạn kết buồn thăm thẳm, se lạnh, dịu dàng và ngơ ngác như heo may cuối mùa thu vậy.
Sài Gòn gió. Lại nhớ đến “sống trong đời sống phải có một tấm lòng, để làm gì em biết không, để gió cuốn đi, để gió cuốn đi”. Có một tấm lòng để gió cuốn đi thì còn lại gì cho mình, cho người. Có đôi lúc mình có cảm giác như một cánh diều, mà đời và người như những cơn gió ùa đến đòi kéo mình đi, nếu mình để gió cuốn đi thì gió cuốn mình đi đâu. Gió đang thổi Sài Gòn là gió từ biển, mang hơi nước mát mẻ. Mà gió định cuốn tấm lòng đi đâu. Lang thang phiêu lãng đi đâu.
Tượng đài Trần Hưng Đạo ở Sài Gòn khác xa với Tượng Đài ở Nam Định. (Tượng) Trần Hưng Đạo ở Sài Gòn nhỏ nhỏ, thấp thấp, dáng vẻ vội vàng, dáng dấp không thể hiện cái uy của người đại tướng mà chỉ như là cái vẻ của một viên tướng tiên phong. Ở dưới chân tượng, từng đôi, từng đôi ôm ấp, vuốt ve, hôn hít vội vã như ngày mai ngày mốt là chia lìa vậy. Có một đôi hát rong rất quấy, cứ nhằm đôi nào đam mê nhất mà chĩa loa vào, hát cho tới khi được cho tiền mới thôi (lại đi tìm một đôi say đắm khác). Hình như chẳng ai để ý tới (tượng) Trần Hưng Đạo nữa. Chẳng ai còn “thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” nữa. Thì đã là mấy cuộc “bể dâu” rồi. Cư xá Brink, biệt động Sài Gòn đánh bom sập, nay lại nghênh ngang cái Park Hyatt, phải mấy trăm đô mới vào được. Tượng đài kỷ niệm trận đánh của Cư xá xem ra có vẻ rất đối lập với cái Park Hyatt, không thể ăn nhập được dù người ta có cố tình nhào nặn cái vẻ ngoài của tấm bia kỷ niệm trận đánh.
Buổi tối về khách sạn, đi qua sảnh, nghe một giai điệu quen quen. “I looked at the sky, running my hands, opened my eyes and I fell out of bed, hurting my head from what I’ve said…that the joke was on me, oh, no, that the joke was on me…”. Phải tới khi nào người ta mới biết những trải nghiệm của cuộc đời thực ra cũng chỉ là a joke on me mà thôi nhỉ.