Xử lý vướng mắc khi tính phạt nộp chậm – Theo quy định hiện hành về các hình thức xử phạt pháp luật về thuế thì: Phạt 0,05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp với hành vi chậm nộp tiền thuế, tiền phạt.
Mức xử phạt tiền là 0,05% số tiền thuế chậm nộp tính trên mỗi ngày chậm nộp. Số ngày chậm nộp tiền thuế bao gồm cả ngày lễ, ngày nghỉ và được tính từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn nộp thuế theo quy định, thời hạn gia nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan thuế, thời hạn ghi trong quyết định xử lý của cơ quan thuế, đến ngày người nộp thuế đã nộp đủ số tiền chậm nộp vào Ngân sách Nhà nước ghi trên chứng từ tiền vào Ngân sách Nhà nước.
Theo đó, trường hợp người nộp thuế không nộp tiền phạt đúng thời hạn quy định thì cơ quan thuế áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu đủ khoản tiền phạt này. Như vậy, việc xử phạt chậm nộp đối với hành vi chậm nộp tiền thuế với mức phạt tiền là 0,05% trên số tiền thuế chậm nộp tính trên mỗi ngày chập nộp, không quy định tính phạt trên số tiền phạt chậm nộp như trước đây. (Theo Công văn số 3685/TCT-CS ngày 11 tháng 9 năm 2007 của TCT).
Chính sách thuế TNDN – Theo quy định hiện hành của Bộ tài chính quy định ấn định thuế đối với trường hợp người nộp thuế nộp thuế theo phương pháp kê khai vi phạm pháp luật thuế thì qua kiểm tra, thanh tra thuế có căn cứ chứng minh người nộp thuế không hạch toán kế toán hoặc có hạch toán kế toán nhưng số liệu trên sổ kế toán không đầy đủ, không chính xác, trung thực dẫn đến không xác định đúng các yếu tố làm căn cứ tính số thuế phải nộp.
Cơ sở kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ nhưng đã thực hiện bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ có hoá đơn, chứng từ phải kê khai doanh thu và tính thuế hàng tháng theo công thức sau:
Thuế thu nhập doanh nghiệp bằng (=) doanh thu nhân (x) tỷ lệ phần trăm (%) thu nhập chịu thuế trên doanh thu nhân (x) thuế suất.
Theo đó, trường hợp cơ sở kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán theo quy định và không xác định được thu nhập chịu thuế TNDN thì cơ quan thuế áp dụng ấn định thuế TNDN theo công thức nêu trên. Về thuế suất thuế TNDN đối với cơ sở ngoài công lập trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao… là 10% theo đúng quy định của pháp luật. (Theo Công văn số 3688/TCT-HT ngày 11 tháng 9 năm 2007 của TCT).
Chính sách thuế đối với tổ chức đầu tư chứng khoán – Theo quy định hiện hành, các quỹ đầu tư nước ngoài, tổ chức nước ngoài được thành lập theo pháp luật nước ngoài, không có tư cách pháp nhân tại Việt Nam nhưng có mở tài khoản đầu tư chứng khoán tại Việt Nam, các tổ chức thành lập và hoạt động theo luật pháp Việt Nam (trừ công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các tổ chức theo quy định của pháp luật) thực hiện nộp thuế TNDN theo phương thức khoán sau: (i) Đối với chuyển nhượng chứng khoán (cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, trái phiếu, trừ trái phiếu thuộc diện miễn thuế), số thuế phải nộp được xác định bằng 0,1 % tổng giá trị chứng khoán bán ra tại thời điểm chuyển nhượng. (ii) Đối với lãi trái phiếu (trừ trái phiếu thuộc diện miễn thuế), số thuế phải nộp được xác định bằng 0,1% tổng giá trị trái phiếu (bao gồm mệnh giá ghi trên trái phiếu và số lãi được nhận) tại thời điểm nhận lãi.
Theo đó, trường hợp quỹ đầu tư nước ngoài mở tài khoản đầu tư chứng khoán tại Việt Nam thuộc đối tượng nộp thuế TNDN với số thuế TNDN được xác định bằng 0,1% tổng giá trị chứng khoán bán ra tại thời điểm nhận lãi theo quy định của pháp luật. (Theo Công văn số 3708/TCT-CS ngày 11 tháng 9 năm 2007 của TCT).
Ưu đãi thuế TNDN – Theo quy định hiện hành, doanh thu để tính thuế thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng, tiền cung cấp dịch vụ bao gồm cả trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cơ sở kinh doanh được hưởng không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.
Theo đó, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng, tiền cung cấp dịch vụ bao gồm cả trợ giá, phụ thu, phụ trội. Đối với doanh thu để tính thu nhập chịu thuế từ kinh doanh vàng bạc là doanh số bán ra. (Theo Công văn số 3721/TCT-HT ngày 12 tháng 9 năm 2007 của TCT).
Chính sách thuế - Theo Công văn số 3719/TCT-CS ngày 12 tháng 9 năm 2007, doanh nghiệp nội địa cho thuê đất, nhà xưởng, bán cơ cở hạ tầng trên đất cho doanh nghiệp chế xuất thì doanh nghiệp nội địa được coi như xuất khẩu, để được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% thì doanh nghiệp nội địa phải đảm bảo các điều kiện hồ sơ, thủ tục theo quy định của pháp luật.
Trường hợp doanh nghiệp nội địa nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp chế xuất thì hàng hoá, dịch vụ doanh nghiệp nội địa nhập khẩu phải chịu thuế GTGT khâu nhập khẩu với thuế suất thuế GTGT theo quy định.
Doanh nghiệp chế xuất không thuộc đối tượng nộp thuế GTGT, không phải kê khai, nộp thuế GTGT đầu ra, không được kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Doanh nghiệp chế xuất khi bán hàng hoá, dịch vụ sử dụng hoá đơn bán hàng (hoặc hoá đơn tự phát hành) theo quy định của Bộ tài chính.
Quy định về nhập khẩu phế liệu - Ngày 30 tháng 8 năm 2007, Bộ Công Thương và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư liên tịch số 02/2007/TTLT-BCT-BTNMT hướng dẫn thực hiện Điều 43 Luật Bảo vệ Môi trường về tiêu chuẩn, điều kiện kinh doanh nhập khẩu phế liệu.
Theo đó, điều kiện được nhập khẩu phế liệu là: Thương nhân nhập khẩu uỷ thác phế liệu cho thương nhân trực tiếp sử dụng phế liệu phải có hợp đồng nhập khẩu uỷ thác ký với thương nhân trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế...
Thương nhân nhập khẩu phế liệu để phân phối cho thương nhân trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế phải: có kho bãi dành riêng cho việc tập kết phế liệu bảo đảm các điều kiện về môi trường thuộc chủ sở hữu hoặc thuê dài hạn từ 01 năm trở lên và phải bán hết phế liệu nhập khẩu sau 03 tháng kể từ ngày phế liệu nhập khẩu về đến cửa khẩu Việt Nam.
Đối với các thương nhân nhập khẩu phế liệu để phân phối nếu kho, bãi chứa phế liệu nhập khẩu không thuộc sở hữu của thương nhân nhập khẩu phế liệu thì ngoài Bản sao Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu, do Sở Tài nguyên và Môi trường nơi đặt kho, bãi chứa phế liệu cấp, còn phải xuất trình Bản sao Hợp đồng thuê kho bãi...
Thông tư liên tịch này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Nhập khẩu thuốc - Ngày 12 tháng 9 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 151/2007/QĐ-TTg ban hành Quy định về việc nhập khẩu thuốc chưa có số đăng ký tại Việt Nam.
Theo đó, thuốc chưa có số đăng ký chỉ được phép nhập khẩu theo hình thức Giấy phép nhập khẩu. Giấy phép này có giá trị tối đa 01 năm kể từ ngày ký.
Thương nhân nước ngoài cung cấp thuốc chưa có số vào Việt Nam phải là các doanh nghiệp có giấy phép hoạt động tại Việt Nam do Bộ Y tế cấp…
Chất lượng thuốc chưa có số đăng ký nhập khẩu vào Việt Nam phải bảo đảm theo đúng quy định về quản lý chất lượng thuốc. Hạn dùng còn lại của thuốc tối thiểu là 18 tháng kể từ ngày tới cảng Việt Nam. Đối với thuốc có hạn dùng bằng hoặc dưới 24 tháng thì hạn dùng còn lại tối thiểu phải là 12 tháng. Đối với vắc xin, sinh phẩm y tế chưa có số đăng ký hạn dùng còn lại phải ít nhất là 2/3 hạn dùng…
Nguyên liệu làm thuốc chưa có số đăng ký nhập khẩu vào Việt Nam phải có hạn dùng còn lại trên 3 năm kể từ ngày đến cảng Việt Nam. Đối với nguyên liệu có hạn dùng bằng hoặc dưới 3 năm thì ngày về đến cảng Việt Nam không được quá 6 tháng kể từ ngày sản xuất. Quy định này không áp dụng đối với dược liệu.
Cơ sở nhập khẩu thuốc chưa có số đăng ký nhập khẩu phải kê khai giá nhập khẩu, giá bán buôn và giá bán lẻ dự kiến tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về quản lý nhà nước giá thuốc.
Thuốc của chương trình, dự án y tế quốc gia phải được nhập khẩu ủy thác qua doanh nghiệp nhập khẩu có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc và có kho thuốc đạt tiêu chuẩn về "Thực hành tốt bảo quản thuốc". Trên nhãn thuốc phải ghi rõ "Thuốc chương trình y tế quốc gia" hoặc "Thuốc dự án y tế quốc gia"…
Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Kiểm soát hoá chất sử dụng trong thực phẩm - Ngày 06 tháng 9 năm 2007, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ra Chỉ thị số 77/2007/CT-BNN về việc tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kiểm soát hóa chất, kháng sinh cấm trong nuôi trồng, khai thác, bảo quản thủy sản sau thu hoạch và kiểm soát dư lượng hóa chất, kháng sinh trong các lô hàng thủy sản xuất nhập khẩu.
Các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải chủ động hướng dẫn cho ngư dân, chủ đầm nuôi, cơ sở thu gom, bảo quản, cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp các yêu cầu về an toàn thực phẩm trong các công đoạn của chuỗi sản xuất thủy sản…
Quy định về thành lập, giải thể doanh nghiệp - Ngày 05 tháng 9 năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 139/2007/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp liên quan đến thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp.
Chính phủ quy định cụ thể danh mục 14 ngành, nghề cấm kinh doanh, các ngành, nghề cấm kinh doanh khác được quy định tại các luật, pháp lệnh và nghị định chuyên ngành…
Tất cả các tổ chức là pháp nhân, gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, không phân biệt nơi cư trú và quốc tịch… đều có quyền: thành lập, tham gia thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam; có quyền góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp với mức không hạn chế theo quy định tương ứng của Luật Doanh nghiệp trừ những trường hợp khác đã được quy định cụ thể. Các cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối không được sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước để góp vốn, mua cổ phần và thành lập doanh nghiệp để thu lợi riêng…
Về điều kiện kinh doanh, trước hết, doanh nghiệp cần có giấy phép kinh doanh; giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh; chứng chỉ hành nghề; chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; xác nhận vốn pháp định và các chấp thuận khác cũng như các yêu cầu phù hợp khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giấy chứng chỉ hành nghề được cấp ở nước ngoài không có hiệu lực thi hành tại Việt Nam…
Việc tổ chức, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp (công ty TNHH một thành viên được phép chuyển đổi thành công ty TNHH hai thành viên trở lên; Công ty cổ phần hoặc công ty TNHH hai thành viên trở lên chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên; Công ty TNHH chuyển đổi thành công ty cổ phần...) phải theo quy trình nhanh gọn, phù hợp với thực tế… Tất cả các quá trình này đều phải tuân thủ theo pháp luật, nộp hồ sơ chuyển đổi tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền hoặc cơ quan nhà nước quản lý đầu tư đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư…
Trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ chuyển đổi, cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền hoặc cơ quan nhà nước quản lý đầu tư phải cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư tương ứng. Đồng thời, thu hồi lại hai loại giấy tờ này đã cấp đối với công ty được chuyển đổi…
Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Điều kiện kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc - Ngày 05 tháng 9 năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 140/2007/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc.
Theo đo, dịch vụ Lô-gi-stíc là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm bốc xếp hàng hóa, nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, giao hàng, kiểm tra và phân tích kỹ thuật, dịch vụ thương mại bán buôn hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá, vận tải theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
Thương nhân Việt Nam kinh doanh các dịch vụ Lô-gi-stíc phải là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam; có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu.
Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc thì còn phải tuân thủ một số điều kiện. Như đối với dịch vụ Lô-gi-stíc liên quan đến vận tải, thương nhân nước ngoài được phép thành lập công ty liên doanh nhưng tỷ lệ góp vốn phải theo quy định. Thương nhân nước ngoài không được phép thực hiện dịch vụ vận tải đường ống, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Đối với dịch vụ Lô-gi-stíc khác như kinh doanh dịch vụ kiểm tra kỹ thuật thì thương nhân nước ngoài chỉ được kinh doanh dưới hình thức liên doanh sau 3 năm hoặc 5 năm.
Thông thường, giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc do các bên tự thỏa thuận. Trường hợp các bên không có thỏa thuận mà khách hàng không có thông báo trước về giá trị hàng hóa thì giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng Việt Nam đối với mỗi yêu cầu bồi thường. Trường hợp khách hàng đã thông báo trước về giá trị hàng hóa và đã được thương nhân kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc xác nhận thì giới hạn trách nhiệm là toàn bộ giá trị của hàng hóa đó.
Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Xử lý vi phạm trong hoạt động đưa người đi làm việc ở nước ngoài - Ngày 10 tháng 9 năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 144/2007/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Nghị định quy định rõ các mức xử phạt đối với hành vi vi phạm trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, mức nhẹ nhất là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 2 - 5 triệu đồng. Mức phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này là 40 triệu đồng.
Ngoài ra, tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như: Đình chỉ có thời hạn hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài từ 3 - 6 tháng; tạm đình chỉ Hợp đồng cung ứng lao động từ 1 - 6 tháng; đình chỉ thực hiện Hợp đồng cung ứng lao động; buộc đưa người lao động về nước theo yêu cầu của nước tiếp nhận người lao động hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam; buộc bồi thường thiệt hại và mọi chi phí phát sinh do hành vi vi phạm hành chính gây ra…
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đến 1.000.000 đồng nếu không đăng ký hợp đồng cá nhân tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bị phạt đến 3.000.000 đồng và buộc về nước khi ở lại nước ngoài trái phép sau khi hết hạn Hợp đồng lao động hoặc bỏ trốn khỏi nơi làm việc theo hợp đồng.
Trường hợp sau khi nhập cảnh nước tiếp nhận lao động không đến nơi làm việc theo hợp đồng; lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc, lừa gạt người lao động Việt Nam ở lại nước ngoài trái quy định của pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị phạt tiền từ 3 - 5 triệu đồng và bị buộc về nước. Ngoài ra người lao động vi phạm còn bị buộc bồi thường thiệt hại và mọi chi phí phát sinh do mình gây ra và tùy theo từng trường hợp sẽ cấm đi làm việc ở nước ngoài trong thời hạn từ 2 - 5 năm…
Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Mức xử phạt tiền là 0,05% số tiền thuế chậm nộp tính trên mỗi ngày chậm nộp. Số ngày chậm nộp tiền thuế bao gồm cả ngày lễ, ngày nghỉ và được tính từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn nộp thuế theo quy định, thời hạn gia nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan thuế, thời hạn ghi trong quyết định xử lý của cơ quan thuế, đến ngày người nộp thuế đã nộp đủ số tiền chậm nộp vào Ngân sách Nhà nước ghi trên chứng từ tiền vào Ngân sách Nhà nước.
Theo đó, trường hợp người nộp thuế không nộp tiền phạt đúng thời hạn quy định thì cơ quan thuế áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu đủ khoản tiền phạt này. Như vậy, việc xử phạt chậm nộp đối với hành vi chậm nộp tiền thuế với mức phạt tiền là 0,05% trên số tiền thuế chậm nộp tính trên mỗi ngày chập nộp, không quy định tính phạt trên số tiền phạt chậm nộp như trước đây. (Theo Công văn số 3685/TCT-CS ngày 11 tháng 9 năm 2007 của TCT).
Chính sách thuế TNDN – Theo quy định hiện hành của Bộ tài chính quy định ấn định thuế đối với trường hợp người nộp thuế nộp thuế theo phương pháp kê khai vi phạm pháp luật thuế thì qua kiểm tra, thanh tra thuế có căn cứ chứng minh người nộp thuế không hạch toán kế toán hoặc có hạch toán kế toán nhưng số liệu trên sổ kế toán không đầy đủ, không chính xác, trung thực dẫn đến không xác định đúng các yếu tố làm căn cứ tính số thuế phải nộp.
Cơ sở kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ nhưng đã thực hiện bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ có hoá đơn, chứng từ phải kê khai doanh thu và tính thuế hàng tháng theo công thức sau:
Thuế thu nhập doanh nghiệp bằng (=) doanh thu nhân (x) tỷ lệ phần trăm (%) thu nhập chịu thuế trên doanh thu nhân (x) thuế suất.
Theo đó, trường hợp cơ sở kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán theo quy định và không xác định được thu nhập chịu thuế TNDN thì cơ quan thuế áp dụng ấn định thuế TNDN theo công thức nêu trên. Về thuế suất thuế TNDN đối với cơ sở ngoài công lập trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao… là 10% theo đúng quy định của pháp luật. (Theo Công văn số 3688/TCT-HT ngày 11 tháng 9 năm 2007 của TCT).
Chính sách thuế đối với tổ chức đầu tư chứng khoán – Theo quy định hiện hành, các quỹ đầu tư nước ngoài, tổ chức nước ngoài được thành lập theo pháp luật nước ngoài, không có tư cách pháp nhân tại Việt Nam nhưng có mở tài khoản đầu tư chứng khoán tại Việt Nam, các tổ chức thành lập và hoạt động theo luật pháp Việt Nam (trừ công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các tổ chức theo quy định của pháp luật) thực hiện nộp thuế TNDN theo phương thức khoán sau: (i) Đối với chuyển nhượng chứng khoán (cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, trái phiếu, trừ trái phiếu thuộc diện miễn thuế), số thuế phải nộp được xác định bằng 0,1 % tổng giá trị chứng khoán bán ra tại thời điểm chuyển nhượng. (ii) Đối với lãi trái phiếu (trừ trái phiếu thuộc diện miễn thuế), số thuế phải nộp được xác định bằng 0,1% tổng giá trị trái phiếu (bao gồm mệnh giá ghi trên trái phiếu và số lãi được nhận) tại thời điểm nhận lãi.
Theo đó, trường hợp quỹ đầu tư nước ngoài mở tài khoản đầu tư chứng khoán tại Việt Nam thuộc đối tượng nộp thuế TNDN với số thuế TNDN được xác định bằng 0,1% tổng giá trị chứng khoán bán ra tại thời điểm nhận lãi theo quy định của pháp luật. (Theo Công văn số 3708/TCT-CS ngày 11 tháng 9 năm 2007 của TCT).
Ưu đãi thuế TNDN – Theo quy định hiện hành, doanh thu để tính thuế thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng, tiền cung cấp dịch vụ bao gồm cả trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cơ sở kinh doanh được hưởng không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.
Theo đó, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng, tiền cung cấp dịch vụ bao gồm cả trợ giá, phụ thu, phụ trội. Đối với doanh thu để tính thu nhập chịu thuế từ kinh doanh vàng bạc là doanh số bán ra. (Theo Công văn số 3721/TCT-HT ngày 12 tháng 9 năm 2007 của TCT).
Chính sách thuế - Theo Công văn số 3719/TCT-CS ngày 12 tháng 9 năm 2007, doanh nghiệp nội địa cho thuê đất, nhà xưởng, bán cơ cở hạ tầng trên đất cho doanh nghiệp chế xuất thì doanh nghiệp nội địa được coi như xuất khẩu, để được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% thì doanh nghiệp nội địa phải đảm bảo các điều kiện hồ sơ, thủ tục theo quy định của pháp luật.
Trường hợp doanh nghiệp nội địa nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp chế xuất thì hàng hoá, dịch vụ doanh nghiệp nội địa nhập khẩu phải chịu thuế GTGT khâu nhập khẩu với thuế suất thuế GTGT theo quy định.
Doanh nghiệp chế xuất không thuộc đối tượng nộp thuế GTGT, không phải kê khai, nộp thuế GTGT đầu ra, không được kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Doanh nghiệp chế xuất khi bán hàng hoá, dịch vụ sử dụng hoá đơn bán hàng (hoặc hoá đơn tự phát hành) theo quy định của Bộ tài chính.
Quy định về nhập khẩu phế liệu - Ngày 30 tháng 8 năm 2007, Bộ Công Thương và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư liên tịch số 02/2007/TTLT-BCT-BTNMT hướng dẫn thực hiện Điều 43 Luật Bảo vệ Môi trường về tiêu chuẩn, điều kiện kinh doanh nhập khẩu phế liệu.
Theo đó, điều kiện được nhập khẩu phế liệu là: Thương nhân nhập khẩu uỷ thác phế liệu cho thương nhân trực tiếp sử dụng phế liệu phải có hợp đồng nhập khẩu uỷ thác ký với thương nhân trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế...
Thương nhân nhập khẩu phế liệu để phân phối cho thương nhân trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế phải: có kho bãi dành riêng cho việc tập kết phế liệu bảo đảm các điều kiện về môi trường thuộc chủ sở hữu hoặc thuê dài hạn từ 01 năm trở lên và phải bán hết phế liệu nhập khẩu sau 03 tháng kể từ ngày phế liệu nhập khẩu về đến cửa khẩu Việt Nam.
Đối với các thương nhân nhập khẩu phế liệu để phân phối nếu kho, bãi chứa phế liệu nhập khẩu không thuộc sở hữu của thương nhân nhập khẩu phế liệu thì ngoài Bản sao Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu, do Sở Tài nguyên và Môi trường nơi đặt kho, bãi chứa phế liệu cấp, còn phải xuất trình Bản sao Hợp đồng thuê kho bãi...
Thông tư liên tịch này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Nhập khẩu thuốc - Ngày 12 tháng 9 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 151/2007/QĐ-TTg ban hành Quy định về việc nhập khẩu thuốc chưa có số đăng ký tại Việt Nam.
Theo đó, thuốc chưa có số đăng ký chỉ được phép nhập khẩu theo hình thức Giấy phép nhập khẩu. Giấy phép này có giá trị tối đa 01 năm kể từ ngày ký.
Thương nhân nước ngoài cung cấp thuốc chưa có số vào Việt Nam phải là các doanh nghiệp có giấy phép hoạt động tại Việt Nam do Bộ Y tế cấp…
Chất lượng thuốc chưa có số đăng ký nhập khẩu vào Việt Nam phải bảo đảm theo đúng quy định về quản lý chất lượng thuốc. Hạn dùng còn lại của thuốc tối thiểu là 18 tháng kể từ ngày tới cảng Việt Nam. Đối với thuốc có hạn dùng bằng hoặc dưới 24 tháng thì hạn dùng còn lại tối thiểu phải là 12 tháng. Đối với vắc xin, sinh phẩm y tế chưa có số đăng ký hạn dùng còn lại phải ít nhất là 2/3 hạn dùng…
Nguyên liệu làm thuốc chưa có số đăng ký nhập khẩu vào Việt Nam phải có hạn dùng còn lại trên 3 năm kể từ ngày đến cảng Việt Nam. Đối với nguyên liệu có hạn dùng bằng hoặc dưới 3 năm thì ngày về đến cảng Việt Nam không được quá 6 tháng kể từ ngày sản xuất. Quy định này không áp dụng đối với dược liệu.
Cơ sở nhập khẩu thuốc chưa có số đăng ký nhập khẩu phải kê khai giá nhập khẩu, giá bán buôn và giá bán lẻ dự kiến tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về quản lý nhà nước giá thuốc.
Thuốc của chương trình, dự án y tế quốc gia phải được nhập khẩu ủy thác qua doanh nghiệp nhập khẩu có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc và có kho thuốc đạt tiêu chuẩn về "Thực hành tốt bảo quản thuốc". Trên nhãn thuốc phải ghi rõ "Thuốc chương trình y tế quốc gia" hoặc "Thuốc dự án y tế quốc gia"…
Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Kiểm soát hoá chất sử dụng trong thực phẩm - Ngày 06 tháng 9 năm 2007, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ra Chỉ thị số 77/2007/CT-BNN về việc tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kiểm soát hóa chất, kháng sinh cấm trong nuôi trồng, khai thác, bảo quản thủy sản sau thu hoạch và kiểm soát dư lượng hóa chất, kháng sinh trong các lô hàng thủy sản xuất nhập khẩu.
Các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải chủ động hướng dẫn cho ngư dân, chủ đầm nuôi, cơ sở thu gom, bảo quản, cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp các yêu cầu về an toàn thực phẩm trong các công đoạn của chuỗi sản xuất thủy sản…
Quy định về thành lập, giải thể doanh nghiệp - Ngày 05 tháng 9 năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 139/2007/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp liên quan đến thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp.
Chính phủ quy định cụ thể danh mục 14 ngành, nghề cấm kinh doanh, các ngành, nghề cấm kinh doanh khác được quy định tại các luật, pháp lệnh và nghị định chuyên ngành…
Tất cả các tổ chức là pháp nhân, gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, không phân biệt nơi cư trú và quốc tịch… đều có quyền: thành lập, tham gia thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam; có quyền góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp với mức không hạn chế theo quy định tương ứng của Luật Doanh nghiệp trừ những trường hợp khác đã được quy định cụ thể. Các cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối không được sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước để góp vốn, mua cổ phần và thành lập doanh nghiệp để thu lợi riêng…
Về điều kiện kinh doanh, trước hết, doanh nghiệp cần có giấy phép kinh doanh; giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh; chứng chỉ hành nghề; chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; xác nhận vốn pháp định và các chấp thuận khác cũng như các yêu cầu phù hợp khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giấy chứng chỉ hành nghề được cấp ở nước ngoài không có hiệu lực thi hành tại Việt Nam…
Việc tổ chức, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp (công ty TNHH một thành viên được phép chuyển đổi thành công ty TNHH hai thành viên trở lên; Công ty cổ phần hoặc công ty TNHH hai thành viên trở lên chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên; Công ty TNHH chuyển đổi thành công ty cổ phần...) phải theo quy trình nhanh gọn, phù hợp với thực tế… Tất cả các quá trình này đều phải tuân thủ theo pháp luật, nộp hồ sơ chuyển đổi tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền hoặc cơ quan nhà nước quản lý đầu tư đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư…
Trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ chuyển đổi, cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền hoặc cơ quan nhà nước quản lý đầu tư phải cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư tương ứng. Đồng thời, thu hồi lại hai loại giấy tờ này đã cấp đối với công ty được chuyển đổi…
Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Điều kiện kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc - Ngày 05 tháng 9 năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 140/2007/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc.
Theo đo, dịch vụ Lô-gi-stíc là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm bốc xếp hàng hóa, nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, giao hàng, kiểm tra và phân tích kỹ thuật, dịch vụ thương mại bán buôn hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá, vận tải theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
Thương nhân Việt Nam kinh doanh các dịch vụ Lô-gi-stíc phải là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam; có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu.
Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc thì còn phải tuân thủ một số điều kiện. Như đối với dịch vụ Lô-gi-stíc liên quan đến vận tải, thương nhân nước ngoài được phép thành lập công ty liên doanh nhưng tỷ lệ góp vốn phải theo quy định. Thương nhân nước ngoài không được phép thực hiện dịch vụ vận tải đường ống, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Đối với dịch vụ Lô-gi-stíc khác như kinh doanh dịch vụ kiểm tra kỹ thuật thì thương nhân nước ngoài chỉ được kinh doanh dưới hình thức liên doanh sau 3 năm hoặc 5 năm.
Thông thường, giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc do các bên tự thỏa thuận. Trường hợp các bên không có thỏa thuận mà khách hàng không có thông báo trước về giá trị hàng hóa thì giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng Việt Nam đối với mỗi yêu cầu bồi thường. Trường hợp khách hàng đã thông báo trước về giá trị hàng hóa và đã được thương nhân kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stíc xác nhận thì giới hạn trách nhiệm là toàn bộ giá trị của hàng hóa đó.
Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Xử lý vi phạm trong hoạt động đưa người đi làm việc ở nước ngoài - Ngày 10 tháng 9 năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 144/2007/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Nghị định quy định rõ các mức xử phạt đối với hành vi vi phạm trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, mức nhẹ nhất là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 2 - 5 triệu đồng. Mức phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này là 40 triệu đồng.
Ngoài ra, tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như: Đình chỉ có thời hạn hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài từ 3 - 6 tháng; tạm đình chỉ Hợp đồng cung ứng lao động từ 1 - 6 tháng; đình chỉ thực hiện Hợp đồng cung ứng lao động; buộc đưa người lao động về nước theo yêu cầu của nước tiếp nhận người lao động hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam; buộc bồi thường thiệt hại và mọi chi phí phát sinh do hành vi vi phạm hành chính gây ra…
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đến 1.000.000 đồng nếu không đăng ký hợp đồng cá nhân tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bị phạt đến 3.000.000 đồng và buộc về nước khi ở lại nước ngoài trái phép sau khi hết hạn Hợp đồng lao động hoặc bỏ trốn khỏi nơi làm việc theo hợp đồng.
Trường hợp sau khi nhập cảnh nước tiếp nhận lao động không đến nơi làm việc theo hợp đồng; lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc, lừa gạt người lao động Việt Nam ở lại nước ngoài trái quy định của pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị phạt tiền từ 3 - 5 triệu đồng và bị buộc về nước. Ngoài ra người lao động vi phạm còn bị buộc bồi thường thiệt hại và mọi chi phí phát sinh do mình gây ra và tùy theo từng trường hợp sẽ cấm đi làm việc ở nước ngoài trong thời hạn từ 2 - 5 năm…
Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

