Giải quyết giùm jo cái Gwill này.
Goodwill dịch sang tiếng việt được hiểu là "lợi thế thương mại". Cái lợi thế thương mại này phát sinh từ đâu?
Phát sinh từ kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, từ tải sản vô hình như brandname, human capital, patents, reputation, ... từ tất cả những gì tạo ra competitive advântage cho doanh nghiệp.
Như vậy, tự thân doanh nghiệp làm ăn hiệu quả đã có goodwil, và được gọi là internally-generated goodwill.
Internally-generated GW không được ghi nhận trên BCTC. Muốn tìm hiểu vì sao, thì phải đọc lại accounting framework.
Jo không thấy GWill trên báo cáo tài chính cũng đúng thôi! vì GW chỉ được ghi nhận trên BCTC trong trường hợp Merger and Acquisition.
Doanh nghiệp A mua doanh nghiệp B, tức là họ đã mua toàn bộ danh tiếng và tất cả các thứ nêu phía trên. A mua B với giá 1tỷ USD, trong khi giá trị hợp lý của B được ước tính khoảng 800tr USD. Khoản chênh lệch 200tr USD được coi là GW, và như thế cũng có thể có Negative GW.
GW đuợc ghi nhận trên B/S của A sau nghiệp vụ mua lại. Hiện tại các nước khác nhau và IFRS cũng treat GW theo các phương pháp khác nhau. NHưng tựu chung lại có 2 models: Allocation and Revaluation Model.
VN và các nước như Úc, Pháp áp dụng allocation model. Tức là GW được ghi nhận và phân bổ dần (thương là 20 năm).
Trong khi Tại Mỹ, Anh prefer revaluation model, cho phép đánh giá lại GW tại thời điểm cuối năm tài chính. Trong khi IFRS chấp thuận cả hai models.
Jo vào đây để thảo luận về GW Tại đấy có đủ nhân tài để giúp giải quyết tất cả các vấn đề cho dù là minority interest hay GW, business combination hay đến portfolio management, asset valuation, thập chí cả subprime mortgage crisis cũng có người tiếp chuyện.