Đơn vị tôi cũng là một trong số các đơn vị có thuế TNCN rất phức tạp. Đọc thông tư 81 và nghị định 147 cùng với công văn 3395 vừa rôi của tổng cục thuế. Tôi có một số suy nghĩ về vấn đề thuế TNCN như thế này.
1- Chúng ta có hai loại thuế thu nhập cá nhân
* Thuế TNCN thường xuyên
* Thuế TNCN không thường xuyên
Trong thuế TNCN thường xuyên lại có hai loại
- loại1: Đó là cán bộ công nhân viên làm viêc trong doanh nghiệp có bảng lương và ký hợp đồng lao đông (Đóng BHXH). Nói tóm lại là cán bộ CNV của DN
Thu nhập thường xuyên của hộ gồm (Theo mục 2.1 trong thông tư 81) . ta tính thuế TNCN theo biểu lũy tiến của nghị định 147.
- Loại2: Đó là người lao động không thuộc doanh nghiệp quản lý, chỉ tham gia ký hợp đồng tư vấn ngắn hạn, HĐ theo thời vụ, lao động chân tay giản đơn ....đây thuộc về thu nhập vãng lai. Loại này phải tạm thu 10% trên 500.000 VND và đến cuối năm khi quyết toán nếu tổng thu nhập của họ từ tất cả các nguồn thu nhập <60 tr (Bình quân <5tr/tháng)thì trả lại họ số thuế TNCN tạm thu. Phân lớn loại này bao gồm các thu nhập từ dịch vụ khoa học kỹ thuật, dịch vụ tin học, dịch vụ tư vấn, thiết kế, kiến trúc, đào tạo, họat động biểu diễn, quảng cáo, họat động thể dục, thể thao, dịch vụ đại lý, thu nhập từ hoa hồng môi giới, dich vụ khác.
Theo công văn 3395 thì hiện nay nếu DN chưa tạm thu 10% khoản thuế TNCN này của người lao động thi DN phải làm công văn lên tổng cục thuế yếu cầu chưa tạm thu 10% thuế TNCN này của họ với điều kiện DN phải chứng minh được là tổng thu nhập của cá nhân đó trong 01 năm không lên tới 60 tr thì cục thuế sẽ cho phép chưa tạm thu khoản 10% này cho đến khi quyết toán thuế cuối năm.
Còn thuế TN không thường xuyên thì có hai loại rõ rệt
-thu nhập về trúng thưởng, xổ số dưới các hình thức kể cả khuyến mãi là khoản thu nhập có giá trị trên 15 tr tính cho từng lần trúng giải
- Thu nhập từ chuyển giao công nghệ có giá trị trên 15 tr tính cho từng hợp đồng không phân biệt số lần chi trả.
Ở đây chuyển giao công nghệ như phần 2.2 trog thông tư 81