Hoá đơn thuế kê khai chậm – Theo Công văn số 15312/BTC-TCT ngày 16 tháng 12năm 2008 của Bộ Tài chính, các hoá đơn GTGT và chứng từ nộp thuế GTGT kê khai chậm quá 3 tháng không được kê khai khấu trừ số thuế GTGT này vào số thuế GTGT phải nộp. Số thuế GTGT không được khấu trừ do kê khai chậm quá 3 tháng doanh nghiệp được hạch toán vào chi phí hợp lý để tính thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp".
Cải cách thủ tục hải quan - Ngày 15/12/2008, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra Chỉ thị số 04/2008/CT-BTC về việc đẩy mạnh cải cách, hiện đại hóa hải quan, phòng chống phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong ngành Hải quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Bộ trưởng yêu cầu: lãnh đạo các cấp trong ngành Hải quan cần tiếp tục quán triệt nghiêm túc và sâu rộng trong đội ngũ cán bộ, công chức hải quan về mục tiêu, yêu cầu và kế hoạch triển khai các chương trình cải cách, hiện đại hóa Hải quan.
Về cải cách thủ tục hải quan: Rà soát, sửa đổi và đơn giản hóa các thủ tục có liên quan đến hoạt động xuất, nhập khẩu trong phạm vi quản lý của Bộ Tài chính. Đồng thời tập trung rà soát, sửa đổi để thống nhất thủ tục hải quan áp dụng cho phương thức thủ công truyền thống và giao dịch điện tử.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chống buôn lậu, gian lận thương mại trong các lĩnh vực: Phân tích, phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, xác định trị giá, chống gian lận về số lượng, chủng loại, ưu đãi đầu tư về thuế, trong quản lý hàng gia công, sản xuất xuất khẩu,… nhằm chống thất thu thuế, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Tổ chức triển khai thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu không thống nhất, xác định giá, thuế suất, ưu đãi thuế,… không đúng quy định; Cục trưởng, Chi cục trưởng Chi cục Hải quan phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra tình trạng này.
Thủ trưởng các cấp trong ngành Hải quan phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thanh tra, kiểm tra công vụ và hoạt động nghiệp vụ tại các đơn vị hải quan cơ sở, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động tự kiểm tra, tăng cường kiểm tra đột xuất. Xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh đối với các trường hợp gây phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong thi hành công vụ, xử lý nghiêm khắc trách nhiệm người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu để xảy ra sai phạm, tiêu cực trong đơn vị hoặc trong lĩnh vực mình phụ trách.
Hướng dẫn xử lý vi phạm hành chính - Ngày 16/12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 128/2008/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (VPHC) năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi VPHC năm 2008.
Theo đó, cá nhân, tổ chức bị xử phạt VPHC, nếu qua 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không thực hiện hành vi vi phạm trong cùng lĩnh vực trước đây đã bị xử phạt thì được coi như chưa bị xử phạt VPHC về hành vi đó. Thời hạn để được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác (giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh…) là 02 năm…
Việc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được coi là hình thức xử phạt bổ sung, được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính, áp dụng có thời hạn hoặc không thời hạn, nếu có thời hạn thì tối đa không quá 12 tháng…
Việc ủy quyền xử lý VPHC chỉ được thực hiện đối với cấp phó. Việc ủy quyền phải được thực hiện bằng văn bản. Việc ủy quyền xử lý VPHC phải xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn ủy quyền. Trường hợp quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính thì việc ủy quyền chỉ được thực hiện khi cấp trưởng vắng mặt…
Việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện VPHC vào ban đêm chỉ được thực hiện trong các trường hợp sau đây: Trường hợp khẩn cấp có căn cứ cho rằng nếu không tổ chức khám ngay thì tang vật, phương tiện VPHC sẽ bị tẩu tán, tiêu hủy hoặc việc thu thập chứng cứ không thể thực hiện được; Trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện VPHC đang được thực hiện mà chưa kết thúc, được bắt đầu từ trước 22 giờ cùng ngày mà chưa kết thúc đến 5 giờ sáng ngày hôm sau…
Khi phát hiện VPHC, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải ra quyết định đình chỉ ngay hành vi vi phạm. Quyết định đình chỉ có thể là quyết định bằng văn bản hoặc quyết định thể hiện bằng lời nói, còi, tín hiệu hoặc các hình thức khác tuỳ từng trường hợp vi phạm cụ thể…
Đối với vụ việc đơn giản, hành vi vi phạm rõ ràng, không cần xác minh thêm thì phải ra quyết định xử phạt trong thời hạn không quá 10 ngày, kể từ ngày lập biên bản về hành vi vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp là 30 ngày…
Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009.
Trợ cấp khó khăn cho người lương thấp - Ngày 15/12/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 169/2008/QĐ-TTg về trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang có mức lương thấp, đời sống khó khăn.
Theo đó, kể từ ngày 01/01/2009, thực hiện trợ cấp khó khăn mức 360.000 đồng/người, trả theo kỳ lương trong 4 tháng đối với các đối tượng có mức lương thấp (hệ số lương từ 3,00 trở xuống), gồm: cán bộ, công chức (bao gồm cả công chức dự bị), viên chức thuộc biên chế hưởng lương từ ngân sách nhà nước làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị-xã hội ở Trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; cán bộ chuyên trách và công chức ở xã, phường, thị trấn; Giáo viên mầm non trong biên chế và giáo viên mầm non hợp đồng; cán bộ y tế xã, phường, thị trấn hưởng lương theo quy định hiện hành…
Trợ cấp khó khăn được tính trả cùng kỳ lương hàng tháng và không dùng để tính đóng, hưởng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế…
Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Bảo hiểm thất nghiệp - Ngày 12/12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 127/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).
Theo đó, trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động phải đến cơ quan lao động để đăng ký. Trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, hằng tháng, người thất nghiệp phải đến thông báo với cơ quan lao động về việc tìm kiếm việc làm.
Người thất nghiệp được hưởng BHTN khi có đủ các điều kiện sau: Đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp; Đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội; Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp.
Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của 06 tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng phụ thuộc vào thời gian làm việc có đóng BHTN của người lao động và tổng thời gian được hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng được thực hiện như sau: 03 tháng, nếu có từ đủ 12 đến dưới 36 tháng đóng BHTN; 06 tháng, nếu có từ đủ 36 đến dưới 72 tháng đóng BHTN; 09 tháng, nếu có từ đủ 72 đến dưới 144 tháng đóng BHTN; 12 tháng, nếu có từ đủ một 144 tháng đóng BHTN trở lên.
Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp được hỗ trợ học nghề với thời gian không quá 06 tháng tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng; được tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí do cơ quan lao động thực hiện thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm; được hưởng chế độ bảo hiểm y tế do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng...
Người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng sẽ bị tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp nếu không thực hiện thông báo hằng tháng với cơ quan lao động về việc tìm kiếm việc làm hoặc bị tạm giam. Nếu sau 02 lần từ chối nhận việc làm do tổ chức bảo hiểm xã hội giới thiệu mà không có lý do chính đáng sẽ bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp...
Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009.
Cải cách thủ tục hải quan - Ngày 15/12/2008, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra Chỉ thị số 04/2008/CT-BTC về việc đẩy mạnh cải cách, hiện đại hóa hải quan, phòng chống phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong ngành Hải quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Bộ trưởng yêu cầu: lãnh đạo các cấp trong ngành Hải quan cần tiếp tục quán triệt nghiêm túc và sâu rộng trong đội ngũ cán bộ, công chức hải quan về mục tiêu, yêu cầu và kế hoạch triển khai các chương trình cải cách, hiện đại hóa Hải quan.
Về cải cách thủ tục hải quan: Rà soát, sửa đổi và đơn giản hóa các thủ tục có liên quan đến hoạt động xuất, nhập khẩu trong phạm vi quản lý của Bộ Tài chính. Đồng thời tập trung rà soát, sửa đổi để thống nhất thủ tục hải quan áp dụng cho phương thức thủ công truyền thống và giao dịch điện tử.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chống buôn lậu, gian lận thương mại trong các lĩnh vực: Phân tích, phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, xác định trị giá, chống gian lận về số lượng, chủng loại, ưu đãi đầu tư về thuế, trong quản lý hàng gia công, sản xuất xuất khẩu,… nhằm chống thất thu thuế, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Tổ chức triển khai thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu không thống nhất, xác định giá, thuế suất, ưu đãi thuế,… không đúng quy định; Cục trưởng, Chi cục trưởng Chi cục Hải quan phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra tình trạng này.
Thủ trưởng các cấp trong ngành Hải quan phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thanh tra, kiểm tra công vụ và hoạt động nghiệp vụ tại các đơn vị hải quan cơ sở, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động tự kiểm tra, tăng cường kiểm tra đột xuất. Xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh đối với các trường hợp gây phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong thi hành công vụ, xử lý nghiêm khắc trách nhiệm người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu để xảy ra sai phạm, tiêu cực trong đơn vị hoặc trong lĩnh vực mình phụ trách.
Hướng dẫn xử lý vi phạm hành chính - Ngày 16/12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 128/2008/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (VPHC) năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi VPHC năm 2008.
Theo đó, cá nhân, tổ chức bị xử phạt VPHC, nếu qua 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không thực hiện hành vi vi phạm trong cùng lĩnh vực trước đây đã bị xử phạt thì được coi như chưa bị xử phạt VPHC về hành vi đó. Thời hạn để được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác (giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh…) là 02 năm…
Việc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được coi là hình thức xử phạt bổ sung, được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính, áp dụng có thời hạn hoặc không thời hạn, nếu có thời hạn thì tối đa không quá 12 tháng…
Việc ủy quyền xử lý VPHC chỉ được thực hiện đối với cấp phó. Việc ủy quyền phải được thực hiện bằng văn bản. Việc ủy quyền xử lý VPHC phải xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn ủy quyền. Trường hợp quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính thì việc ủy quyền chỉ được thực hiện khi cấp trưởng vắng mặt…
Việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện VPHC vào ban đêm chỉ được thực hiện trong các trường hợp sau đây: Trường hợp khẩn cấp có căn cứ cho rằng nếu không tổ chức khám ngay thì tang vật, phương tiện VPHC sẽ bị tẩu tán, tiêu hủy hoặc việc thu thập chứng cứ không thể thực hiện được; Trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện VPHC đang được thực hiện mà chưa kết thúc, được bắt đầu từ trước 22 giờ cùng ngày mà chưa kết thúc đến 5 giờ sáng ngày hôm sau…
Khi phát hiện VPHC, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải ra quyết định đình chỉ ngay hành vi vi phạm. Quyết định đình chỉ có thể là quyết định bằng văn bản hoặc quyết định thể hiện bằng lời nói, còi, tín hiệu hoặc các hình thức khác tuỳ từng trường hợp vi phạm cụ thể…
Đối với vụ việc đơn giản, hành vi vi phạm rõ ràng, không cần xác minh thêm thì phải ra quyết định xử phạt trong thời hạn không quá 10 ngày, kể từ ngày lập biên bản về hành vi vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp là 30 ngày…
Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009.
Trợ cấp khó khăn cho người lương thấp - Ngày 15/12/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 169/2008/QĐ-TTg về trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang có mức lương thấp, đời sống khó khăn.
Theo đó, kể từ ngày 01/01/2009, thực hiện trợ cấp khó khăn mức 360.000 đồng/người, trả theo kỳ lương trong 4 tháng đối với các đối tượng có mức lương thấp (hệ số lương từ 3,00 trở xuống), gồm: cán bộ, công chức (bao gồm cả công chức dự bị), viên chức thuộc biên chế hưởng lương từ ngân sách nhà nước làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị-xã hội ở Trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; cán bộ chuyên trách và công chức ở xã, phường, thị trấn; Giáo viên mầm non trong biên chế và giáo viên mầm non hợp đồng; cán bộ y tế xã, phường, thị trấn hưởng lương theo quy định hiện hành…
Trợ cấp khó khăn được tính trả cùng kỳ lương hàng tháng và không dùng để tính đóng, hưởng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế…
Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Bảo hiểm thất nghiệp - Ngày 12/12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 127/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).
Theo đó, trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động phải đến cơ quan lao động để đăng ký. Trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, hằng tháng, người thất nghiệp phải đến thông báo với cơ quan lao động về việc tìm kiếm việc làm.
Người thất nghiệp được hưởng BHTN khi có đủ các điều kiện sau: Đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp; Đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội; Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp.
Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của 06 tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng phụ thuộc vào thời gian làm việc có đóng BHTN của người lao động và tổng thời gian được hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng được thực hiện như sau: 03 tháng, nếu có từ đủ 12 đến dưới 36 tháng đóng BHTN; 06 tháng, nếu có từ đủ 36 đến dưới 72 tháng đóng BHTN; 09 tháng, nếu có từ đủ 72 đến dưới 144 tháng đóng BHTN; 12 tháng, nếu có từ đủ một 144 tháng đóng BHTN trở lên.
Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp được hỗ trợ học nghề với thời gian không quá 06 tháng tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng; được tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí do cơ quan lao động thực hiện thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm; được hưởng chế độ bảo hiểm y tế do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng...
Người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng sẽ bị tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp nếu không thực hiện thông báo hằng tháng với cơ quan lao động về việc tìm kiếm việc làm hoặc bị tạm giam. Nếu sau 02 lần từ chối nhận việc làm do tổ chức bảo hiểm xã hội giới thiệu mà không có lý do chính đáng sẽ bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp...
Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009.

