Chổ khác biệt giữa kế toán và kiểm toán?

  • Thread starter nguyen1987
  • Ngày gửi
N

nguyen1987

Cao cấp
Chào các anh chị:
Em có một thắc mắc, giữa kế toán và kiểm toán có chỗ khác biệt như thế nào?
Công việc của kế tóan thì em biết, còn kiểm toán thì công việc cụ thể là việc gì? Những người như thế nào mới được làm kiểm toán.
Về quyền hạn thì ai hơn ai?
Cảm ơn anh chị nhiều.
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
N

nguyentanxuan

Sơ cấp
31/3/09
5
0
0
nghe an
theo tôi hiểu thì kiểm toán là kiểm tra kế toán thì phải. Nếu như thế thì kiểm toán nó có quyền hơn. Trước đây ở cơ quan cũ mình thấy dân kiêmt toán còn bày cho anh kế toán bọn mình hạch toán thế nào cho đúng luật.Kiểm toán nó có quyền kiểm tra i mà.
 
blacksimmer

blacksimmer

Guest
5/1/09
77
1
0
Who am I?hix
Chào các anh chị:
Em có một thắc mắc, giữa kế toán và kiểm toán có chỗ khác biệt như thế nào?
Công việc của kế tóan thì em biết, còn kiểm toán thì công việc cụ thể là việc gì? Những người như thế nào mới được làm kiểm toán.
Về quyền hạn thì ai hơn ai?
Cảm ơn anh chị nhiều.

Khái niệm về kiểm toán

Ở Việt nam, thuật ngữ kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng mới xuất hiện từ những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Trên thế giới, thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu cầu xác định tính trung thực, độ tin cậy của thông tin trong báo cáo tài chính, kế toán và thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về kiểm toán độc lập.

Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International Federation of Accountants –IFAC) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”

Trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James K.Loebbecker đã định nghĩa: “ Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”

Định nghĩa khác nêu: “Kiểm toán là thủ pháp xem xét và kiểm tra một cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm tra những thông tin đặc trưng được xác định bởi kiểm toán viên hoặc thiết lập bởi thực hành chung. Nói tổng quát, mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc đi đến kết luận về cái được kiểm toán”.( trích từ Auditing - Theory & Practice của John Dunn, University of Strathclyde, Glasgow nhà xuất bản Prentice Hall)

Trong Qui chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định số 07/CP của Chính phủ ngày 29/1/94 có nêu: “ Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập về tính đúng đắn, hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội (gọi tắt là các đơn vị kế toán) khi có yêu cầu của đơn vị này”.

Như vậy, tuy các định nghĩa nêu trên cách diễn đạt và từ ngữ khác nhau song chúng đều thống nhất ở những nội dung cơ bản sau:

¨ Chủ thể tham gia hoạt động kiểm toán: Người thực thi công việc kiểm toán (kiểm toán viên) và các đơn vị kinh tế (gọi chung là các doanh nghiệp) có các thông tin kinh tế được kiểm toán.

¨ Đối tượng kiểm toán: Là các thông tin kinh tế được kiểm toán mà kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến về những thông tin này sau quá trình thực hiện công việc kiểm toán.

¨ Mục tiêu của kiểm toán: kết thúc quá trình kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra ý kiến về đối tượng kiểm toán.

(a) Chủ thể tham gia hoạt động kiểm toán bao gồm kiểm toán viên và đơn vị kinh tế có thông tin cần kiểm toán (đơn vị được kiểm toán).

Kiểm toán viên theo tiêu chuẩn của IFAC (Liên đoàn kế toán quốc tế) và luật pháp các nước thành viên đều qui định các yêu cầu cơ bản của kiểm toán viên là: Có kỹ năng và khả năng nghề nghiệp, chính trực, khách quan, độc lập và tôn trong bí mật. Ở nước ta, các qui định, tiêu chuẩn và yêu cầu cơ bản của kiểm toán viên được qui định cụ thể trong Qui chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định 07/CP của Chính phủ và chuẩn mực kiểm toán số 200 (đoạn 14,15). Các qui định này về cơ bản không khác với các yêu cầu chung theo tiêu chuẩn của IFAC.


Đơn vị kinh tế có thông tin kinh tế cần kiểm toán có thể là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, các đơn vị kinh tế sự nghiệp, các chương trình, dự án, .., tuy nhiên các đối tượng này chỉ trở thành chủ thể trong hoạt động kiểm toán khi có nhu cầu hoặc do yêu cầu mang tính bắt buộc về mặt quản lý nhà nước.

Mối quan hệ giữa các chủ thể kiểm toán phản ánh bản chất của các loại hình kiểm toán, nó thể hiện địa vị pháp lý của các kiểm toán viên trong nền kinh tế và trong quá trình kiểm toán. Sự khác biệt này dẫn đến quyền hạn, trách nhiệm, phạm vi hoạt động của kiểm toán viên cũng như những đóng góp khác nhau đối với nền kinh tế.

(b) Đối tượng kiểm toán là các thông tin kinh tế được kiểm toán mà kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến về những thông tin này sau quá trình thực hiện kiểm toán.

Các thông tin kinh tế là đối tượng kiểm toán có thể là các báo cáo tài chính tổng hợp, chi tiết hàng năm, báo cáo quyết toán giá trị công trình, báo cáo xác định giá trị vốn góp của các bên đối tác, hoặc một nội dung, chỉ tiêu kinh tế nào đó như về tình hình kê khai nộp thuế, tình hình sử dụng vốn đầu tư, ... . Đối với các dự án thì ngoài các thông tin về tài chính như trên còn các thông tin kinh tế khác như các thông tin về tình hình thực hiện dự án, nội dung và đánh giá hiệu quả dự án, ... . Có thể tập hợp các thông tin kinh tế là đối tượng kiểm toán thành các nhóm sau:

- Thông tin kinh tế là các báo cáo tài chính.

- Thông tin kinh tế mang tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ phận hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị. Các thông tin này liên quan đến các thủ tục và phương pháp hoạt động của một bộ phận hay của toàn đơn vị kinh tế với tư cách là chủ thể kiểm toán.

- Thông tin kinh tế liên quan đến việc tuân thủ các qui định mang tính chất pháp lý hoặc đã được thống nhất trước mà đơn vị kinh tế đó phải tuân theo. Ví dụ như việc thực hiện các qui định về quản lý lao động, tiền lương, các chính sách quản lý tài chính, ... .

(c) Mục tiêu của kiểm toán:

Kết thúc quá trình kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra ý kiến của mình về đối tượng kiểm toán. Tuỳ thuộc vào các đối tượng kiểm toán, các báo cáo kiểm toán có thể khác nhau về hình thức, nội dung nhưng về bản chất trong mọi trường hợp chúng đều phải thông tin cho người đọc về mức độ tương quan và phù hợp của đối tuợng kiểm toán với các chuẩn mực đã được xây dựng.
 
blacksimmer

blacksimmer

Guest
5/1/09
77
1
0
Who am I?hix
Kiểm toán có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuy nhiên có hai tiêu thức cơ bản được áp dụng là

– Phân loại kiểm toán theo chức năng

Theo chức năng hay theo đối tượng kiểm toán thì kiểm toán gồm: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ.

(1) Kiểm toán báo cáo tài chính

Đối tượng của loại kiểm toán này là các báo cáo tài chính. Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không. Các báo cáo tài chính của đơn vị kinh tế gồm Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh ( báo cáo tình hình hình sử dụng kinh phí - đối với đơn vị có sử dụng kinh phí), Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và các bản ghi chú, thuyết minh báo cáo tài chính hoặc bất cứ loại báo cáo tài chính nào được lập trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực được chấp nhận.

(2) Kiểm toán hoạt động

Kiểm toán hoạt động là đánh giá mức độ hiệu lực tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ phận hay toàn đơn vị. Đối tượng của kiểm toán hoạt động nói chung là các thông tin kinh tế về hiệu quả của quá trình hoặc thời kỳ hoạt động, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Như đánh giá hiệu quả của phương án kinh doanh, một qui trình công nghệ hay có thể là tính hữu hiệu của việc tổ chức lưu chuyển chứng từ trong đơn vị đến việc đánh giá kết quả đạt được so với mục tiêu, kế hoạch đề ra của chương trình, dự án… .Vì vậy kiểm toán hoạt động thường vượt quá phạm vị các công tác kế toán, tài chính mà liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Kết thúc quá trình kiểm toán, kiểm toán viên báo cáo cho người quản lý về kết quả kiểm toán và những ý kiến chủ quan về biện pháp cải tiến nâng cao chất lượng hoạt động.

(3) Kiểm toán tuân thủ

Kiểm toán tuân thủ là việc xem xét tính tuân thủ các thủ tục, nguyên tắc , các qui định pháp lý của nhà nước, của cơ quan có thẩm quyền hoặc những nội qui tự đề ra của đơn vị. Các nội dung về kiểm toán tuân thủ có thể gồm các lĩnh vực như kiểm toán về tính tuân thủ các luật thuế; chế độ chính sách tiền lương; kiểm toán việc thực thi theo các thủ tục đã thoả thuận…. Kiểm toán viên không chịu trách nhiệm ngăn ngừa những hành vi vi phạm mà chỉ tiến hành việc xem xét việc thực hiện những qui định pháp lý của đơn vị, đồng thời đề xuất những giải pháp, xử lý khi phát hiện các hành vi vi phạm luật định.

– Phân loại kiểm toán theo chủ thể kiểm toán

Căn cứ theo chủ thể kiểm toán có kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước và kiểm toán nội bộ.

(1) Kiểm toán độc lập

Kiểm toán độc lập là loại kiểm toán được tiến hành bởi các kiểm toán viên thuộc các công ty, các văn phòng kiểm toán chuyên nghiệp. Kiểm toán độc lập là hoạt động dịch vụ tư vấn được pháp luật thừa nhận và quản lý chặt chẽ. Quan hệ giữa các chủ thể kiểm toán (kiểm toán viên/tổ chức kiểm toán và đơn vị kinh tế được kiểm toán) là quan hệ mua bán dịch vụ, đơn vị kinh tế được kiểm toán trả phí dịch vụ cho các kiểm toán viên theo thoả thuận trong hợp đồng kiểm toán. Các kiểm toán viên độc lập là những người hội đủ các tiêu chuẩn theo chuẩn mực kiểm toán và các qui định pháp lý về hành nghề kiểm toán.

Kiểm toán độc lập chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính, thực hiện các dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán. Ngoài ra, tuỳ từng thời kỳ kinh tế và yêu cầu cụ thể của khách hàng, kiểm toán viên độc lập còn thực hiện các dịch vụ khác như kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và đặc biệt là kiểm toán các quyết toán giá trị công trình xây dựng cơ bản hoàn thành, xác định giá trị vốn góp.

Hoạt động kiểm toán độc lập là hoạt động kiểm toán rất phổ biến ở các nước có nền kinh tế phát triển, vì thế hoạt động kiểm toán nói chung thường được coi là hoạt động kiểm toán độc lập. Trong hoạt động kiểm toán độc lập thì kiểm toán báo cáo tài chính là chủ yếu, theo đó đề cập về kiểm toán độc lập tức là kiểm toán độc lập báo cáo tài chính.

(2) Kiểm toán Nhà nước

Nếu kiểm toán độc lập là hoạt động dịch vụ và thu phí thì kiểm toán nhà nước lại là công việc kiểm toán do cơ quan kiểm toán nhà nước tiến hành theo luật định và không thu phí kiểm toán.

Nội dung của Kiểm toán chủ yếu là kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính sách luật lệ và các chế độ của Nhà nước và đánh giá sự hữu hiệu, hiệu quả hoạt động tại các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của nhà nước. Cơ quan kiểm toán nhà nước là một tổ chức trong bộ máy quản lý của Nhà nước. Kiểm toán viên Nhà nước là các viên chức Nhà nước.

Kiểm toán nhà nước nhận xét, đánh giá và xác nhận việc chấp hành các chính sách, chế độ tài chính, kế toán ở đơn vị. Bên cạnh đó kiểm toán Nhà nước còn có quyền góp ý và yêu cầu các đơn vị được kiểm toán sửa chữa sai phạm và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính kế toán cần thiết.


(3) Kiểm toán nội bộ

Là loại kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành theo yêu cầu của Giám đốc doanh nghiệp hoặc thủ trưởng đơn vị. Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 610 thì kiểm toán nội bộ “Là bộ phận kiểm soát trong đơn vị, thực hiện kiểm tra vì lợi ích của đơn vị này. Trong số các công việc thực hiện, chủ yếu gồm kiểm tra, đánh giá và kiểm soát tính thích đáng và hiệu quả của các hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ”

Chức năng của kiểm toán nội bộ bao gồm kiểm tra, xác nhân và đánh giá. Nội dung kiểm toán có thể một số hoặc các nội dung như kiểm toán báo cáo tài chính; kiểm toán báo cáo kế toán quản trị của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên; kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Trên thực tế phạm vi của kiểm toán nội bộ thay đổi và tuỳ thuộc vào qui mô, cơ cấu của đơn vị cũng như yêu cầu của các nhà quản lý doanh nghiệp.

Tóm lại, các loại kiểm toán nêu trên dù được xét trên góc độ nào (theo chức năng kiểm toán hay theo đối tượng kiểm toán) thì mục đích của kiểm toán vẫn là đưa ra ý kiến nhận xét một cách độc lập, khách quan về đối tượng kiểm toán. Chúng đều không làm tăng thêm các thông tin kinh tế mà chỉ đảm bảo từ nguồn độc lập, hợp lý rằng các thông tin kinh tế đó đã được lập có dựa trên các nguyên tắc, chuẩn mực đã được thiết lập và có trình bày một cách trung thực, hợp lý hay không.
 
  • Like
Reactions: AliciaTa
R

RANMOIK16

Guest
12/4/09
5
0
0
HCM
Các định nghĩa trên của các bạn rất đúng và đó là lý thuyết có vẻ "hàn lâm" nên người không phải tronh ngành kiểm toán sẽ rất khó hiểu.
Theo tôi, hiểu đơn giản thế này: Kế toán là những người chịu trách nhiệm ghi sổ kế toán để LẬP BÁO CÁO TÀI CHÍNH. Còn kiểm toán viên (CPA) là những người sẽ đưa ra ý kiến gọi là Ý KIẾN KIỂM TOÁN vể BCTC của đơn vị có TRUNG THỰC VÀ HỢP LÝ hay chưa dựa trên những kết quả kiểm tra của họ.
 
G

gachip3

Cao cấp
30/8/08
380
1
0
ha noi
vì kiểm toán kiểm tra kế toán nên người ta luôn nghĩ rằng kt là người có quyền, Thực ra không phải vậy, bất cứ ai làm công việc gì đều có thể gặp sai sót, nhất là với những con số, người kiểm traKTV có những phương pháp phát hiện sai sót và chỉnh sửa lại, hay làm trung thực quá trình hạch toán. Đó là một công việc như tất cả các công việc khác. Hãy tưởng tượng một kiểm toán viên khi làm kế toán thì dù có giỏi đến mấy cũng phải có chút ít sai sót, Đúng không?.
Tôi hy vọng sau này làm một KTV có kinh nghiệm trình độ, và sẽ không có thái độ chủ quan, qua sai phạm của kế toán mà đánh giá họ.
Tuy nhiên, hình như tôi luôn có tư tưởng thực hiện kế toán hơn là kiểm tra, vì cảm thấy khi thực hiện một quá trình ghi sổ nghiệp vụ tôi cảm thấy thích thú hơn, dễ tìm ra sai phạm hơn là tìm sai phạm của ai đó, tôi không nhập tâm vào được những cái mà người khác đã thực hiện, không tiếp nhận được tư duy thực hiện của họ.
 
M

myquynh304

Guest
13/3/08
41
0
6
41
TPHCM
Kiểm toán viên

vì kiểm toán kiểm tra kế toán nên người ta luôn nghĩ rằng kt là người có quyền, Thực ra không phải vậy, bất cứ ai làm công việc gì đều có thể gặp sai sót, nhất là với những con số, người kiểm traKTV có những phương pháp phát hiện sai sót và chỉnh sửa lại, hay làm trung thực quá trình hạch toán. Đó là một công việc như tất cả các công việc khác. Hãy tưởng tượng một kiểm toán viên khi làm kế toán thì dù có giỏi đến mấy cũng phải có chút ít sai sót, Đúng không?.
Tôi hy vọng sau này làm một KTV có kinh nghiệm trình độ, và sẽ không có thái độ chủ quan, qua sai phạm của kế toán mà đánh giá họ.
Tuy nhiên, hình như tôi luôn có tư tưởng thực hiện kế toán hơn là kiểm tra, vì cảm thấy khi thực hiện một quá trình ghi sổ nghiệp vụ tôi cảm thấy thích thú hơn, dễ tìm ra sai phạm hơn là tìm sai phạm của ai đó, tôi không nhập tâm vào được những cái mà người khác đã thực hiện, không tiếp nhận được tư duy thực hiện của họ.

bạn nhận định giống tư tưởng của em thật.
 
N

nguyen1987

Cao cấp
Nhưng theo mình biết thì kiểm toán có trách nhiệm kiểm tra kế toán, nên đôi khi con người ta hay bất bẻ người khác hơn là phải thực hiện việc ghi sổ sách. Vì ít ra kiểm cũng khỏe hơn là làm mà.
 
kinhcan007

kinhcan007

Cao cấp
15/8/07
536
4
0
Ha noi
nên đôi khi con người ta hay bất bẻ người khác hơn là phải thực hiện việc ghi sổ sách. Vì ít ra kiểm cũng khỏe hơn là làm mà.

Một suy nghĩ quá là chủ quan và lệch lạc, người làm kế toán là ghi chép sổ sách và thống kê các con số, người kiểm toán là kiểm tra và đưa ra những ý kiến để hoàn chỉnh sổ sách và khắc phục những sai sót...
Không bao giờ có thể so sánh bên nào khoẻ hơn và mệt hơn??? Vì mỗi lĩnh vực luôn có những đòi hỏi riêng và mang những tính chất riêng.
 
NTAC

NTAC

Cao cấp
23/7/07
1,211
12
38
36
In the blue Air
Tóm lại là Kế toán thì làm việc theo NV, còn kiểm toán là đưa ra ý kiến đánh giá.
 
T

thd6758

Cao cấp
4/5/07
2,280
119
63
Hà Nội
Hiểu một cách đơn giản đối với kế toán và kiểm toán như sau :
1/_Kế toán là việc tập hợp, ghi chép số liệu từ chứng từ kế toán để tọa ra sản phẩm của kế toán là báo cáo tài chính, sổ kế toán
2/_Kiểm toán là việc đo lường, xem xét các sản phẩm đó có phù hợp với tiêu chuẩn qui định của chế độ kế toán, chế độ thuế và các chuẩn mực về kế toán hay không
Vì vậy ở đây không thể xem kiểm toán là người kiểm tra kế toán bởi lẽ khi kiểm toán đưa ra ý kiến thì kế toán có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận ý kiến của kiểm toán. Khác với việc kiểm tra khi kiểm tra đưa ra ý kiến thì đối tượng được kiểm tra phải chấp hành.
 
N

Nguyen Dieu Hung

Guest
2/12/09
1
0
0
Ca Mau
Rất cảm ơn BQT webketoan đã quan tâm. Mình làm ở ngân hàng nên cuối năm công việc rất nhiều, k có thời gian để lên mạng nữa. Mình sẽ cố gắng gửi bài hoặc góp ý nhiều hơn. Cảm ơn BQT nhiều nhiều!
 

Xem nhiều