Chào các anh chị:
Em có một thắc mắc, giữa kế toán và kiểm toán có chỗ khác biệt như thế nào?
Công việc của kế tóan thì em biết, còn kiểm toán thì công việc cụ thể là việc gì? Những người như thế nào mới được làm kiểm toán.
Về quyền hạn thì ai hơn ai?
Cảm ơn anh chị nhiều.
Khái niệm về kiểm toán
Ở Việt nam, thuật ngữ kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng mới xuất hiện từ những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Trên thế giới, thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu cầu xác định tính trung thực, độ tin cậy của thông tin trong báo cáo tài chính, kế toán và thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về kiểm toán độc lập.
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International Federation of Accountants –IFAC) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”
Trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James K.Loebbecker đã định nghĩa: “ Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”
Định nghĩa khác nêu: “Kiểm toán là thủ pháp xem xét và kiểm tra một cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm tra những thông tin đặc trưng được xác định bởi kiểm toán viên hoặc thiết lập bởi thực hành chung. Nói tổng quát, mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc đi đến kết luận về cái được kiểm toán”.( trích từ Auditing - Theory & Practice của John Dunn, University of Strathclyde, Glasgow nhà xuất bản Prentice Hall)
Trong Qui chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định số 07/CP của Chính phủ ngày 29/1/94 có nêu: “ Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập về tính đúng đắn, hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội (gọi tắt là các đơn vị kế toán) khi có yêu cầu của đơn vị này”.
Như vậy, tuy các định nghĩa nêu trên cách diễn đạt và từ ngữ khác nhau song chúng đều thống nhất ở những nội dung cơ bản sau:
¨ Chủ thể tham gia hoạt động kiểm toán: Người thực thi công việc kiểm toán (kiểm toán viên) và các đơn vị kinh tế (gọi chung là các doanh nghiệp) có các thông tin kinh tế được kiểm toán.
¨ Đối tượng kiểm toán: Là các thông tin kinh tế được kiểm toán mà kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến về những thông tin này sau quá trình thực hiện công việc kiểm toán.
¨ Mục tiêu của kiểm toán: kết thúc quá trình kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra ý kiến về đối tượng kiểm toán.
(a) Chủ thể tham gia hoạt động kiểm toán bao gồm kiểm toán viên và đơn vị kinh tế có thông tin cần kiểm toán (đơn vị được kiểm toán).
Kiểm toán viên theo tiêu chuẩn của IFAC (Liên đoàn kế toán quốc tế) và luật pháp các nước thành viên đều qui định các yêu cầu cơ bản của kiểm toán viên là: Có kỹ năng và khả năng nghề nghiệp, chính trực, khách quan, độc lập và tôn trong bí mật. Ở nước ta, các qui định, tiêu chuẩn và yêu cầu cơ bản của kiểm toán viên được qui định cụ thể trong Qui chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định 07/CP của Chính phủ và chuẩn mực kiểm toán số 200 (đoạn 14,15). Các qui định này về cơ bản không khác với các yêu cầu chung theo tiêu chuẩn của IFAC.
Đơn vị kinh tế có thông tin kinh tế cần kiểm toán có thể là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, các đơn vị kinh tế sự nghiệp, các chương trình, dự án, .., tuy nhiên các đối tượng này chỉ trở thành chủ thể trong hoạt động kiểm toán khi có nhu cầu hoặc do yêu cầu mang tính bắt buộc về mặt quản lý nhà nước.
Mối quan hệ giữa các chủ thể kiểm toán phản ánh bản chất của các loại hình kiểm toán, nó thể hiện địa vị pháp lý của các kiểm toán viên trong nền kinh tế và trong quá trình kiểm toán. Sự khác biệt này dẫn đến quyền hạn, trách nhiệm, phạm vi hoạt động của kiểm toán viên cũng như những đóng góp khác nhau đối với nền kinh tế.
(b) Đối tượng kiểm toán là các thông tin kinh tế được kiểm toán mà kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến về những thông tin này sau quá trình thực hiện kiểm toán.
Các thông tin kinh tế là đối tượng kiểm toán có thể là các báo cáo tài chính tổng hợp, chi tiết hàng năm, báo cáo quyết toán giá trị công trình, báo cáo xác định giá trị vốn góp của các bên đối tác, hoặc một nội dung, chỉ tiêu kinh tế nào đó như về tình hình kê khai nộp thuế, tình hình sử dụng vốn đầu tư, ... . Đối với các dự án thì ngoài các thông tin về tài chính như trên còn các thông tin kinh tế khác như các thông tin về tình hình thực hiện dự án, nội dung và đánh giá hiệu quả dự án, ... . Có thể tập hợp các thông tin kinh tế là đối tượng kiểm toán thành các nhóm sau:
- Thông tin kinh tế là các báo cáo tài chính.
- Thông tin kinh tế mang tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ phận hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị. Các thông tin này liên quan đến các thủ tục và phương pháp hoạt động của một bộ phận hay của toàn đơn vị kinh tế với tư cách là chủ thể kiểm toán.
- Thông tin kinh tế liên quan đến việc tuân thủ các qui định mang tính chất pháp lý hoặc đã được thống nhất trước mà đơn vị kinh tế đó phải tuân theo. Ví dụ như việc thực hiện các qui định về quản lý lao động, tiền lương, các chính sách quản lý tài chính, ... .
(c) Mục tiêu của kiểm toán:
Kết thúc quá trình kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra ý kiến của mình về đối tượng kiểm toán. Tuỳ thuộc vào các đối tượng kiểm toán, các báo cáo kiểm toán có thể khác nhau về hình thức, nội dung nhưng về bản chất trong mọi trường hợp chúng đều phải thông tin cho người đọc về mức độ tương quan và phù hợp của đối tuợng kiểm toán với các chuẩn mực đã được xây dựng.