Chiến Tranh Tiền Tệ

  • Thread starter Ryan
  • Ngày gửi
R

Ryan

Guest
28/4/09
3
12
0
TP. HCM
CUỘC TRANH CỬ TỔNG THỐNG NĂM 1912

Thứ Ba, vị hiệu trưởng của Trường Đại học Princeton sẽ trúng cử thống đốc bang New Jersey của các bạn. Tháng 11 năm 1912, ông ta sẽ đắc cử tổng thống Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1917, ông ta sẽ tiếp tục tái đắc cử thêm một nhiệm kỳ nữa. Và đó sẽ là một trong những tổng thống vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

Bài phát biểu của Rabbi Stephen ở New Jersey năm 1910
Wise - người sau này trở thành cố vấn thân cận của tổng thống Wilson - có thể dự đoán chính xác kết quả tổng tuyển cử bầu tổng thống trước hai năm, thậm chí là kết quả bầu thổng thống của 6 năm sau, hoàn toàn không phải vì trong tay ông ta thật sự có một quả cầu thần kỳ của các phù thủy, mà bởi vì mọi kế hoạch đều là việc đã được các nhà ngân hàng vạch ra sẵn.

Không ngoài dự tính của các nhà ngân hàng quốc tế, quả thực cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1907 đã gây chấn động rất lớn đến xã hội Mỹ. Sự phẩn nộ của dân chúng đối với công ty đầu tư ủy thác, sự hoang mang đối với việc các ngân hàng đóng cửa, sự dè chừng và sợ hãi đối với thế lực của các ông trùm tài chính phố Wall hòa vào nhau tạo thành trào lưu phản đối mạnh mẽ mọi sự lũng đoạn tài chính đã cuốn cả nước Mỹ vào cuộc.

Woodrow Wilson - hiệu trưởng Trường đại học Princeton - chính là một phần tử sục sôi phản đối lại sự lũng đoạn tài chính đó. Frank Vanderlip - Chủ tịch National City Bank đã từng nói rằng: “Tôi viết thư mời Woodrow Wilson - hiệu trưởng Trường đại học Princeton tham gia một buổi dạ tiệc và phát biểu diễn thuyết. Để cho ông ta biết được đây là một cơ hội trọng đại, tôi đã nói rằng thượng nghị sĩ Aldrich cũng phải đến tham dự và phát biểu diễn thuyết. Câu trả lời của tiến sĩ Wilson đã khiến tôi kinh ngạc, ông ta đã thẳng thừng từ chối phát biểu diễn thuyết chung với thượng nghị sĩ Aldrich.”

Thượng nghị sĩ Aldrich khi đó là người rất có thế lực với 40 năm làm việc trong quốc hội nhưng có đến 36 năm ở vị trí thượng nghị sĩ, lại là Chủ tịch ủy ban tài chính thượng viện có quyền lực rất lớn, bản thân là cha vợ của Johan Rockefeller con, có mối qua lại vô cùng mật thiết với giới ngân hàng phố Wall. Năm 1908, ông ta đã đề nghị rằng, trong tình huống khẩn cấp, ngân hàng có thể phát hành tiền tệ, và dùng phiếu công trái của Chính phủ liên bang, Chính phủ bang và Chính phủ địa phương cùng với phiếu công trái đường sắt làm tài sản thế chấp. Hay thật, rủi ro đã có Chính phủ và người dân cáng đáng, còn chỗ ngon lành thì các nhà ngân hàng hưởng cả, điều này khiến người ta không thể không bái phục thủ đoạn của phố Wall. Cái đề án này được gọi là “Đạo luật tiền tệ khẩn cấp” (Emergency Currency Act), và trở thành cơ sở lập pháp cho đề án cục dự trữ liên bang Mỹ 5 năm sau đó. Thượng nghị sĩ Aldrich được coi là người phát ngôn của phố Wall.

Woodrow Wilson tốt nghiệp đại học Princeton năm 1879, sau đó học thêm ngành luật ở đại học Virginia, vào năm 1886 bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ở đại học John Hopkins. Năm 1902, Woodrow Wilson chính thức trở thành hiệu trưởng đại học Princeton. Với học vấn uyên thâm, ông luôn phản đối mạnh mẽ sự lũng đoạn tài chính, và đương nhiên là không muốn gần gũi với người phát ngôn của các trùm tài chính. Mặc dù học cao hiểu rộng và có một trái tim bác ái, song, vị hiệu trưởng trường đại học Princeton cũng khó mà hiểu hết được kỹ xảo kiếm tiền của các nhà ngân hàng phố Wall.

Đám tài phiệt ngân hàng hiểu rõ rằng, Wilson là một người nổi tiếng chuyên phản đối sự lũng đoạn tài chính, một nhân tài với hình tượng trong sáng, và đó quả thật là một viên ngọc thuần khiết khó có được. Vì thế, các ông trùm nhà băng ngấm ngầm đổ tiền đầu tư vào Wilson, ra sức “đẽo gọt” hòng dùng ông vào việc lớn.

Cũng may là Cleveland Dodge - chủ tịch của ngân hàng đô thị quốc gia New York lại là bạn học của Wilson ở đại học Princeton. Năm 1902, việc Wilson nhậm chức hiệu trưởng của Princeton một cách thuận lợi chính là kết quả của sự hỗ trợ to lớn về tài chính của Dodge. Có được một mối quan hệ không đơn giản như vậy, dưới sự sắp đặt của các nhà tài phiệt ngân hàng, Dodge bắt đầu loan tin ở phố Wall rằng Wilson được dự đoán sẽ trở thành tổng thống tương lai.

Một người mới nhậm chức hiệu trưởng được mấy năm mà đột nhiên có người tung hô là tổng thống tương lai, thì việc mừng thầm cũng là chuyện thường tình của con người. Đương nhiên, việc được tung hô như vậy luôn phải trả giá. Wilson bắt đầu quay lưng với phong trào phản đối lũng đoạn tài chính và xích gần lại với phố Wall. Quả nhiên, dưới sự ủng hộ của các ông chủ phố Wall, Wilson nhanh chóng trở thành thống đốc của bang New Jersey vào năm 1910.

Trong những trường hợp công khai, Wilson vẫn nghiêm khắc chỉ trích phố Wall lũng đoạn tài chính, nhưng trong lòng ông ta cũng hiểu rằng địa vị và tiền đồ chính trị của ông ta sẽ phải hoàn toàn dựa vào thế lực của các nhà ngân hàng. Các nhà ngân hàng khoan dung và kiềm chế một cách lạ thường trước sự đả kích của Wilson, hai bên đã duy trì một sự hiểu ngầm khéo léo mà chẳng cần phải nói ra.

Trong khi uy tín và thanh danh của Wilson ngày càng lên cao, các nhà ngân hàng đã nâng trống kéo cờ gây quỹ tranh cử tổng thống cho ông. Dodge thành lập một văn phòng quyên quỹ tranh cử cho Wilson tại số 42 đại lộ Broadway New York, đồng thời mở tài khoản ở ngân hàng, và Dodge đã góp một tấm chi phiếu trị giá 1.000 đô-la. Bằng phương thức chuyển phát nhanh, Dodge đã quyên góp được một khoản kinh phí cực lớn từ các nhà tài phiệt ngân hàng, và 2/3 nguồn kinh phí trong tổng số quyên góp được đều do 7 nhà tài phiệt ngân hàng lớn nhất phố Wall đóng góp.

Sau khi được đề cử tranh cử tổng thống, trong niềm vui khó kiềm chế nổi, Wilson đã viết thư cho Dodge và nói rằng “Thật là không thể tưởng tượng niềm vui của tôi”. Từ đây, Wilson đã hoàn toàn dốc sức cho hoài bão của các nhà ngân hàng. Với tư cách là người tham gia tranh cử của đảng dân chủ, Wilson đã mang trên vai mình trọng trách cùng niềm hy vọng vô cùng của đảng này, cơn khát quyền lực của đảng dân chủ vốn đã mất chiếc ghế tổng thống trong nhiều năm cũng chẳng khác gì cơn khát của Wilson.

Thách thức lớn nhất lúc này của Wilson chính là đương kim tổng thống Taft – người khi đó còn chưa được biết đến trên toàn quốc – và so với Wilson thì rõ ràng đương kim tổng thống Taft có lợi thế hơn rất nhiều. Trong khi Taft đang tự tin chuẩn bị bước vào nhiệm kỳ tổng thống thứ hai và tỏ ý chưa sẵn sàng bật đèn xanh cho đạo luật của Aldrich thì một sự việc kỳ lạ chưa từng thấy đã xảy ra: cựu tổng thống Roosevelt (cha) - người tiền nhiệm của Taft đã đột nhiên chen ngang, ra tham gia tranh cử tổng thống, thật là họa vô đơn chí cho Taft của đảng cộng hòa lẫn người “thay ca” do Roosevelt (cha) lựa chọn. Năm đó Roosevelt (cha) nhờ ép buộc cơ quan chứng khoán miền bắc giải thể mà tiếng tăm lừng lẫy, và được tiếng là cương quyết với nạn lũng đoạn, và sự xuất hiện đột ngột của ông ta sẽ xâm hại nghiêm trọng đến phiếu bầu của Taft.

Trên thực tế, sau lưng của ba ứng cử viên này đều có sự ủng hộ của các nhà tài phiệt ngân hàng. Dưới sự dàn xếp của phố Wall, Roosevelt (cha) quả nhiên “không cẩn thận” đã gây hại nặng nề cho Taft, khiến Wilson trúng cử thuận lợi. Màn kịch này tuy khúc điệu có khác nhưng cách diễn thì lại hay như màn kịch của năm 1992 khi mà Bush cha bị Perry cướp mất một lượng lớn phiếu bầu mà thất bại bất ngờ trước đối thủ mới - Bill Clinton.​
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
R

Ryan

Guest
28/4/09
3
12
0
TP. HCM
AI NẮM GIỮ CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ?

Nhiều năm nay, vấn đề ai đang nắm giữ Cục dữ trữ liên bang Mỹ vẫn luôn là một đề tài kín như bưng. Bản thân Cục dự trữ liên bang Mỹ thì luôn quanh co úp mở. Giống như ngân hàng Anh quốc, Cục dự trữ liên bang Mỹ cũng giữ kín thông tin về các cổ đông. Hạ nghị sĩ Wright Patman đảm nhận chức chủ tịch ngân hàng Hạ viện và ủy ban tiền tệ đến 40 năm, trong đó có 20 năm liền ông không ngừng đề xuất phương án phế bỏ Cục dự trữ liên bang Mỹ, và ông cũng luôn để ý đến vấn đề rốt cuộc ai đang nắm giữ Cục dự trữ liên bang Mỹ.

Bí mật này cuối cùng đã được hé lộ. Eustace Mullins - tác giả cuốn sách “Bí mật của cục dự trữ liên bang Mỹ” (Secrets of Federal Reserve) - đã trải qua hơn nửa thế kỷ nghiên cứu và thu thập được 12 giấy phép kinh doanh (Organization Certificates) sớm nhất của ngân hàng Cục dự trữ liên bang Mỹ, trên đó ghi rõ ràng giá trị mỗi một cổ phần cấu thành của Cục dự trữ liên bang.

Ngân hàng New York của cục dự trữ liên bang Mỹ là ngân hàng khống chế thực tế của hệ thống Cục dự trữ liên bang Mỹ, tổng lượng cổ phần phát hành theo đăng ký trong văn bản gửi cơ quan kiểm toán ngày 19 tháng 5 năm 1914 là 203.053 cổ phần, trong đó:
Ngân hàng National City Bank of New York dưới sự khống chế của công ty Rockefeller và Kuhn Loeb, tức là tiền thân của ngân hàng Hoa Kỳ, nắm giữ số cổ phần lớn nhất, giữ 30.000 cổ phần.

Ngân hàng First National Bank của Morgan nắm giữ 15.000 cổ phần. Sau khi sáp nhập vào năm 1955 thành ngân hàng Hoa Kỳ, hai công ty đã nắm giữ gần ¼ số cổ phần của ngân hàng New York thuộc Cục dữ trữ liên bang Mỹ, và trên thực tế, nó đã quyết định chiếc ghế chủ tịch của Cục dự trữ liên bang, việc tổng thống Mỹ bổ nhiệm chức chủ tịch chỉ là một hình thức sơ sài mà thôi, còn việc lấy ý kiến quốc hội lại càng giống một màn kịch lướt qua.

Ngân hàng thương mại quốc gia New York (National Bank of Commerce of New York City) của Paul Wahlberg nắm giữ 21.000 cổ phần.

Ngân hàng Hanover Bank của dòng họ Rothschild đảm nhận chức chủ tịch với quyền sở hữu 10.200 cổ phần.

Ngân hàng Chase National Bank nắm giữ 6.000 cổ phần.​
Tổng cộng sáu ngân hàng này đã nắm giữ 40% cổ phần ngân hàng New York thuộc Cục dự trữ liên bang Mỹ, đến năm 1983, họ đã nắm giữ tổng cộng là 53% lượng cổ phần. Sau khi điều chỉnh, tỉ lệ nắm giữ cổ phần của họ là: Ngân hàng Hoa Kỳ 15%, Chase Manhattan 14%, Morgan Guaranty Trust 9%, Manufacturers Hanover 7%, Chemical Bank 8%.

Tổng vốn đăng ký của ngân hàng New York thuộc Cục dự trữ liên bang Mỹ là 143 triệu đô-la, nhưng việc các ngân hàng kể trên có chi ra khoản tiền này hay không vẫn là một câu đố. Có một số nhà sử học cho rằng các ngân hàng chỉ chi ra một nửa hiện kim, trong khi một số nhà sử học khác thì cho rằng, về cơ bản, các ngân hàng không chi ra bất cứ hiện kim nào mà chỉ dùng hối phiếu để chi ra, và trên tài khoản của Cục dự trữ liên bang Mỹ mà bản thân họ đang sở hữu chỉ là sự biến động của mấy con số mà thôi, còn sự vận hành của Cục dự trữ liên bang Mỹ thực ra chính là việc “dùng giấy thế chấp phát hành ra giấy”. Chẳng thế mà một nhà sử học đã mỉa mai rằng hệ thống ngân hàng dự trữ liên bang không mang tính chất “liên bang”, cũng chẳng có “dự trữ”, và cũng không phải là ngân hàng nốt.

Ngày 15 tháng 6 năm 1978, Ủy ban Đối ngoại của Chính phủ thượng nghị viện Mỹ (Government Affairs) đã công bố báo cáo về lợi tức của các công ty chủ chốt của nước Mỹ. Báo cáo này cho thấy rằng, 470 vị trí thành viên hội đồng quản trị là do người của các ngân hàng kể trên nắm giữ đến từ 130 công ty chủ yếu nhất của Mỹ, tính bình quân tại mỗi một công ty chủ chốt có 3,6 ghế trong hội đồng quản trị thuộc về các nhà ngân hàng.

Trong đó, ngân hàng Hoa Kỳ đã khống chế 97 ghế hội đồng quản trị; công ty JP Morgan - 99 ghế; Ngân hàng Chamical - 96 ghế; Chase Manhattan - 89 ghế; Hanover De - 89 ghế.

Ngày 3 tháng 9 năm 1914, khi Cục dự trữ liên bang Mỹ quyết định bán cổ phần ra công chúng, thời báo New York đã công bố cơ cấu cổ phần của các ngân hàng chủ yếu như sau:
National City Bank đã phát hành 250.000 cổ phiếu, James Stillman nắm giữ 47.498 cổ phần; công ty JP Morgan nắm giữ 14.500 cổ phần; William Rockefeller nắm giữ 10.000 cổ phần; John.Rockefeller nắm giữ 1.750 cổ phần.

Ngân hàng thương mại quốc gia New York đã phát hành 250.000 cổ phiếu, George Berk nắm giữ 10.000 cổ phiếu; công ty JP Morgan – 7.800 cổ phần; Mary Hariman – 5.650 cổ phần; Paul Wahlberg – 3.000 cổ phần; Jacob Schiff - 1.000 cổ phần, JP Morgan con – 1.000 cổ phần.

Ngân hàng Chase, George Berk nắm giữ 13.408 cổ phiếu.

Ngân hàng Hanover, James Still nắm giữ 4.000 cổ phần; William Rockefeller nắm giữ 1.540 cổ phần.​
Kể từ khi thành lập vào năm 1913 đến nay, Cục dự trữ liên bang đã cho thấy một sự thật không thể bao biện rằng các nhà ngân hàng đang thao túng mạch máu tài chính, mạch máu công thương nghiệp và mạch máu chính trị của nước Mỹ. Hơn thế nữa, các nhà ngân hàng của phố Wall đều có mối quan hệ mật thiết với dòng họ Rothschild của thành Luân Đôn.

Benjamin Strong - CEO của Bankers Trust - được chọn làm chủ tịch hội đồng quản trị của ngân hàng New York thuộc Cục dự trữ liên bang Mỹ khóa thứ nhất. “Dưới sự khống chế của Strong, hệ thống dự trữ liên bang đã hình thành mối quan hệ khăng khít chặt chẽ với ngân hàng Anh quốc và ngân hàng France. Benjamin Strong giữ chức chủ tịch ngân hàng Cục dự trữ liên bang Mỹ ở New York mãi đến năm 1928 thì đột ngột tử vong, trong khi quốc hội đang điều tra hội nghị bí mật của hội đồng quản trị Cục dự trữ liên bang cũng như giới chóp bu của ngân hàng trung ương châu Âu, và những hội nghị bí mật này đã dẫn đến cuộc đại suy thoái năm 1929.”​
 
Sửa lần cuối:
R

Ryan

Guest
28/4/09
3
12
0
TP. HCM
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ KHÓA MỘT CỦA CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ

Về sau, Wilson đã tự thừa nhận rằng, ông ta chỉ được phép chỉ định một thành viên trong hội đồng quản trị của Cục dự trữ liên bang Mỹ, và các thành viên còn lại đều do các nhà ngân hàng của New York lựa chọn. Trong quá trình đề cử và bổ nhiệm Paul Wahlberg vào vị trí chủ tịch hội đồng quản trị, thượng nghị viện yêu cầu ông phải có mặt tại quốc hội để trả lời chất vấn vào tháng 6 năm 1914, chủ yếu là tìm hiểu vai trò của ông trong quá trình soạn thảo dự luật Cục dự trữ liên bang, nhưng rốt cuộc, Paul đã từ chối thẳng thừng. Trong thư gửi cho quốc hội, ông tuyên bố rằng việc trả lời bất cứ chất vấn nào theo yêu cầu đều có thể sẽ ảnh hưởng đến vai trò của ông trong hội đồng quản trị Cục dự trữ liên bang, vì vậy ông quyết định từ chối việc tiếp nhận đề cử vào chức chủ tịch hội đồng quản trị Cục dự trữ liên bang Mỹ. Thời báo New York ngay lập tức lên tiếng minh oan cho Paul, và trong số báo ngày 10 tháng 7 năm 1914, tờ báo này đã chỉ trích thượng nghị viện không nên chất vấn Paul một cách hồ đồ như vậy.

Hiển nhiên Paul là nhân vật trung tâm của Cục dự trữ liên bang Mỹ. Nếu không có ông, chắc chẳng có người thứ hai nào biết được Cục dự trữ liên bang Mỹ rốt cuộc vận hành như thế nào. Đối mặt với thái độ cứng rắn của ông, quốc hội chỉ còn cách gật đầu và đưa ra một danh sách các câu hỏi trước khi ông nhậm chức, và nếu như có câu hỏi nào Paul cảm thấy “sẽ ảnh hưởng đến vai trò của mình”, ông ta có thể không trả lời, và cuối cùng thì Paul đã đành miễn cưỡng đồng ý, nhưng yêu cầu được gặp mặt phi chính thức.

Ủy ban hỏi: Tôi biết ngài là người của Đảng Cộng hòa, nhưng ngay khi Roosevelt tham gia tranh cử thì ngài lại trở thành người đồng tình và ủng hộ của Wilson (Đảng Dân chủ)?

Paul đáp: Đúng vậy.

Ủy ban hỏi: Nhưng anh (Felix Warburg) của ngài lại ủng hộ Taft (Đảng Cộng hòa)?”

Paul đáp: Đúng vậy.

Điều thú vị là, ba cổ đông của công ty Kuhn Loeb lại ủng hộ ba người khác nhau ra tranh cử tổng thống, trong số đó Otto Kahn ủng hộ Roosevelt cha. Giải thích của Paul là ba người này không can thiệp vào quan điểm chính trị của nhau, bởi vì “tài chính và chính trị không liên quan đến nhau”.

Paul vượt qua cuộc điều trần của quốc hội một cách thuận lợi, trở thành chủ tịch thứ nhất của cục dự trữ liên bang Mỹ, sau đó trở thành phó chủ tịch hội đồng quản trị.

Ngoài Paul ra, bốn thành viên khác của hội đồng là:

  • Adolph Miller, nhà kinh tế học, xuất thân từ đại học Chicago do Rockefeller tài trợ và đại học Havard do Morgan tài trợ.
  • Charles Hamlin, từng đảm nhiệm chức trợ lý bộ trưởng tài chính.
  • Frederick Delano, thông gia của Roosevelt, nhà ngân hàng đường sắt.
  • W.P.G Harding Chủ tịch First National Bank of Atlanta.

Thomas D. Jones được tổng thống Wilson đích thân tiến cử đã bị bộ tư pháp Mỹ điều tra và khởi tố, về sau tự rút lui khỏi hội đồng quản trị.

Hai thành viên khác là bộ trưởng tài chính và kiểm toán viên tiền tệ.​
 
R

Ryan

Guest
28/4/09
3
12
0
TP. HCM
ỦY BAN TƯ VẤN LIÊN BANG (FEDERAL ADVISORY COUNCIL)

Ủy ban tư vấn liên bang là một chiếc camera bí mật được Paul Wahlberg dày công thiết kế để khống chế hội đồng quản trị Cục dự trữ liên bang Mỹ. Trong quá trình vận hành hơn 90 năm của Cục dự trữ liên bang, Ủy ban tư vấn liên bang đã thực hiện một cách hết sức xuất sắc ý tưởng năm đó của Paul, hầu như chưa có ai để ý cơ cấu này và sự vận hành của nó, cũng chưa có nhiều công trình nghiên cứu đáng tin cậy.

Năm 1913, hạ nghị sĩ Grasse đã ra sức quảng cáo cho ủy ban tư vấn liên bang. Ông ta nói: “Ở đây không thể có thứ gì gian ác. Mỗi năm (hội đồng quản trị cục dự trữ liên bang) sẽ hội đàm bốn lần với ủy ban tư vấn của các nhà ngân hàng, mỗi một thành viên đại diện cho cục dự trữ liên bang địa phương nơi mình sống. Chúng ta còn có thể bảo vệ lợi ích của công chúng tốt hơn sự sắp đặt này không?” Bản thân hạ nghị sĩ chính là Grasse – một nhà ngân hàng, và ông ta không giải thích hoặc cung cấp bất cứ chứng cứ nào cho thấy các nhà ngân hàng đã từng bảo vệ lợi ích gì của công chúng trong lịch sử của nước Mỹ.

Ủy ban tư vấn liên bang do 12 nhà ngân hàng địa phương thuộc cục dự trữ liên bang tiến cử hợp thành, mỗi năm hội đàm bốn lần với thành viên của hội đồng quản trị cục dự trữ liên bang Mỹ ở Washington. Các nhà ngân hàng đã đề xuất “kiến nghị” chính sách tiền tệ cho các thành viên hội đồng quản trị của cục dự trữ liên bang Mỹ, mỗi một đại biểu đại diện cho lợi ích kinh tế của địa phương mình, mỗi người đều có quyền bỏ phiếu như nhau, đơn giản mà hoàn toàn kín kẽ về lý thuyết, nhưng trong sự khốc liệt tàn bạo của ngành ngân hàng thì đó hoàn toàn lại là một bộ “quy tắc ngầm” khác.

Thật khó tưởng tượng được tại sao một nhà ngân hàng nhỏ của Cincinnati ngồi chung một bàn hội nghị với các trùm tài chính quốc tế như Paul Wahlberg, Morgan để đề xuất “kiến nghị chính sách tiền tệ” với các ông trùm tài chính này? Chỉ cần tiện tay móc trong túi ra một tấm chi phiếu rồi ngoạch lên đó hai nét bút thì bất cứ ai trong số hai ông trùm tài chính này cũng đủ khiến cho các nhà ngân hàng nhỏ khuynh gia bại sản. Trên thực tế, sự sinh tồn của mỗi một nhà ngân hàng nhỏ trong số 12 khu vực liên bang đều hoàn toàn phụ thuộc và sự ban ơn của 5 ngân hàng lớn ở phố Wall. Năm ông trùm này có ý đem đa số các giao dịch lớn với các ngân hàng châu Âu để chuyển thành các giao dịch nhỏ lẻ cho các “ngân hàng vệ tinh” trong các khu vực của mình đi xử lý. Và càng có được những thương vụ béo bở thì “các ngân hàng vệ tinh” càng thêm phục tùng nghe theo các ông trùm kia, đương nhiên năm ông trùm kia cũng có quyền nắm giữ cổ phần của những ngân hàng nhỏ này. Nói chung chúng ta không cần phải tưởng tượng nhiều cũng có thể biết được kết quả mỗi khi khi các ngân hàng nhỏ “đại diện cho lợi ích khu vực của mình” này cùng nhau thảo luận chính sách tiền tệ của Mỹ với năm ông trùm tài chính kia.

Cho dù “kiến nghị” của ủy ban tư vấn liên bang chẳng có sức trói buộc lắm đối với việc quyết sách của hội đồng quản trị Cục dự trữ liên bang, nhưng đều đặn mỗi năm bốn lần, các nhà ngân hàng không ngại khổ cực vi hành đến Washington để hội họp với năm ông trùm phố Wall. Có phải họ đến Washington chỉ để gặp gỡ trà nước với năm nhà tài phiệt đó? Nên nhớ rằng, những con người vô cùng bận rộn cùng lúc phải kiêm nhiệm chức chủ tịch hội đồng quản trị của 63 công ty như Morgan, nếu như sự “kiến nghị” của họ không nhận được bất cứ sự suy xét nào, mà họ vẫn vui vẻ bôn ba đi về, đó thực sự là điều hết sức kỳ lạ.​
 
R

Ryan

Guest
28/4/09
3
12
0
TP. HCM
CHÂN TƯỚNG Ở ĐÂU?

Tuyệt đại đa số người Mỹ hoàn toàn không thể hiểu được chính xác phương thức vận hành của các thể chế cho vay quốc tế. Sổ sách của cục dự trữ liên bang Mỹ vốn dĩ chưa từng được kiểm tra. Nó hoàn toàn được vận hành bên ngoài phạm vi khống chế của quốc hội, và nó đang thao túng (cung ứng) tín dụng của nước Mỹ.

Thượng nghị sĩ Barry Goldwater​

Để tạo ra giá cao, Cục dự trữ liên bang Mỹ chỉ cần hạ thấp lãi suất xuống, nhằm mở rộng hoạt động tín dụng và tạo nên một thị trường cổ phiếu phồn vinh. Ngay sau khi ngành công thương đã quen với môi trường lãi suất như vậy, Cục dự trữ liên bang Mỹ lại quyết định nâng cao lãi suất một cách tùy ý nhằm chấm dứt sự phồn vinh này.

Nó (cục dự trữ liên bang Mỹ và các nhà ngân hàng nắm giữ cục dự trữ liên bang) có thể dùng khả năng điều chỉnh lãi suất nhẹ nhàng để khiến cho giá thị trường dao động lên xuống một cách hài hòa như con lắc, cũng có thể điều chỉnh mạnh lãi suất để khiến cho giá cả thị trường dao động dữ dội, bất kể là tình hình nào, nó sẽ nắm giữ tin tức nội bộ của tình hình tài chính và biết trước sự thay đổi sắp đến của sự việc.

Đây là điều mà không có một chính phủ nào có thể có được, quyền biết trước (thông tin thị trường) kỳ lạ nhất và nguy hiểm nhất mà giai cấp đặc quyền thiểu số nắm giữ. Hệ thống này là thuộc tư hữu, toàn bộ mục đích vận hành của nó chính là lợi dụng tiền của người khác để thu được lợi nhuận lớn nhất có thể. Họ biết được khi nào thì có thể tạo ra khủng khoảng để đạt đến tình hình có lợi nhất đối với họ. Tương tự, họ cũng biết phải dừng khủng hoảng vào lúc nào là thích hợp nhất. Khi tài chính được khống chế thì việc lạm phát tiền tệ và siết chặt tiền tệ đều có hiệu suất như nhau đối với mục đích của họ.

Hạ nghị sĩ Charles Lindbergh​

Mỗi một đồng chứng chỉ cục dự trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve Note) đều đại diện cho một khoản nợ chưa trả của một đồng đô-la của cục dự trữ liên bang Mỹ.

Báo cáo tiền tệ, ngân hàng hạ viện và ủy ban tiền tệ​

Ngân hàng khu vực của cục dự trữ liên bang Mỹ không phải là cơ cấu chính phủ, mà là công ty độc lập, do tư nhân nắm giữ và địa phương kiểm soát.

Lewis và chính phủ Mỹ, 9th Circuit 1982​

Cục dự trữ liên bang Mỹ là một trong những cơ cấu hủ bại nhất trên thế giới. Những người có thể nghe chúng ta nói (diễn thuyết của quốc hội), chẳng có ai biết được trên thực tế quốc gia của chúng ta đang bị các nhà ngân hàng quốc tế thống trị. Có một số người cho rằng ngân hàng cục dự trữ liên bang Mỹ là cơ cấu của chính phủ Mỹ. Chúng (ngân hàng cục dự trữ liên bang Mỹ) không phải là cơ cấu chính phủ. Chúng là cơ cấu lũng đoạn hoạt động tín dụng của tư hữu, cục dự trữ liên bang Mỹ đang bóc lột nhân dân Mỹ vì lợi ích của bản thân chúng và những kẻ bịp bợp ngoại quốc.

Hạ nghị sĩ Louis McFadden

Khi bạn và tôi viết chi phiếu, trong tài khoản của chúng ta cần phải có đủ tiền để bảo đảm cho kim ngạch của chi phiếu. Thế nhưng, khi cục dự trữ liên bang Mỹ xuất chi phiếu, trong tài khoản của nó chẳng có bất cứ món tiền nào để bảo đảm. Khi xuất chi phiếu chính là lúc Cục dự trữ liên bang Mỹ sáng tạo ra tiền tệ.

Ngân hàng cục dự trữ liên bang Mỹ Boston​

Từ năm 1913 đến năm 1949, nguồn vốn của cục dự trữ liên bang Mỹ từ 143 triệu đô-la tăng vọt lên 45 tỉ đô-la. Số tiền này trực tiếp chảy vào hầu bao của các cổ đông ngân hàng Cục dự trữ liên bang Mỹ.

L’Estaque Mullins​

Rất nhiều vị tổng thống đã đưa ra lời cảnh báo về sự đe dọa của quyền lực tiền tệ. Nhiều ghi chép của quốc hội và các án lệ pháp luật đã nói rõ ràng tính chất tư hữu của cục dự trữ liên bang Mỹ, nhưng có bao nhiêu người dân Mỹ, và người dân của các quốc gia khác biết được điều này? Đây mới là điểm đáng sợ của vấn đề! Chúng ta cho rằng giới truyền thông uy quyền của phương tây “tự do công bằng” sẽ phơi bày chân tướng tất cả, nhưng mọi chân tướng trên thực tế đều bị giới truyền thông “bỏ qua” một cách cố ý. Vậy còn sách giáo khoa của nước Mỹ thì sao? Vốn dĩ các loại sách giáo khoa của Mỹ đều lấy việc lựa chọn những “nội dung lành mạnh” cho thế hệ sau mà bỏ qua các loại quỹ mang danh nghĩa của các nhà ngân hàng quốc tế.

Trước khi qua đời, khi tổng thống Wilson đã thừa nhận rằng mình đã bị lừa dối trong các vấn đề liên quan đến Cục dự trữ liên bang Mỹ. Ông đã day dứt khi nói rằng “tôi đã vô ý hủy hoại tổ quốc mình ”.

Khi cục dự trữ liên bang Mỹ chính thức đi vào hoạt động ngày 25 tháng 10 năm 1914, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã bùng nổ. Lại một sự “trùng hợp” hoàn hảo về thời gian! Các cổ đông của Cục dự trữ liên bang Mỹ đang hồ hởi chờ một một mẻ cá lớn!​
 
R

Ryan

Guest
28/4/09
3
12
0
TP. HCM
Chiến tranh và suy thoái:

MÙA BỘI THU CỦA CÁC NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

Nguy cơ thật sự của đất nước cộng hòa chúng ta chính là chính phủ bù nhìn này – một con bạch tuộc khổng lồ với vô vàn xúc tu đang bám chặt lấy các thành phố, các bang và đất nước của chúng ta. Cái đầu của con bạch tuộc này là tập đoàn dầu khí của Rockefeller và một nhóm nhỏ được gọi là trùm tài chính có năng lực cực lớn của các ngân hàng quốc tế. Trên thực tế, chúng đang thao túng chính phủ Mỹ nhằm thỏa mãn ham muốn cá nhân của bản thân mình.

Thông qua việc khống chế nguồn cung ứng tiền tệ để dễ bề điều khiển Chính phủ, các nhà tài phiệt ngân hàng càng có cơ hội để bóc lột người dân và cướp bóc nguồn tài nguyên của quốc gia. Đây chính là lý do giải thích vì sao các dòng họ lớn này luôn tập trung cao độ vào quyền lực đồng thời dốc sức để sai khiến quyền lực và thông qua việc phát hành tiền tệ để chiếm đoạt tài nguyên.

Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế này cũng như gia tộc Rockefeller chính là thế lực khống chế phần lớn báo chí của đất nước. Họ sử dụng những chuyên mục bình luận trên các báo này để kiềm chế các quan chức chính phủ. Những người không quy thuận sẽ bị họ tống khứ ra khỏi cơ cấu chính phủ.

Trên thực tế, các nhà tài phiệt ngân hàng đã khống chế cả hai đảng (đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ), kiểm soát cương lĩnh chính trị của hai đảng, khống chế các nhân vật lãnh đạo, tin dùng các ông trùm của các công ty tư nhân. Nói chung, họ không từ bất cứ thủ đoạn nào để sắp đặt nhân sự trong các cơ quan cấp cao của chính phủ theo ý họ.


John Hylan, Thị trưởng thành phố New York, 1927.​

Chiến tranh luôn cần đến tiền. Quy mô chiến tranh càng lớn thì lượng tiền chi ra càng nhiều, đây là cái lý mà ai cũng biết. Vấn đề là ai tiêu tiền của ai? Do chính phủ các nước Âu – Mỹ không có quyền phát hành tiền tệ nên nguồn tiền tất yếu chỉ có thể được vay từ ngân hàng. Chiến tranh làm cho tốc độ tiêu hao vật tư tăng cực độ, khiến cho các nước tham chiến dù có thất bại cũng phải theo đuổi đến cùng. Chiến tranh cũng khiến các chính phủ tìm mọi cách để vay tiền ngân hàng, bởi vậy thật dễ hiểu, tại sao chiến tranh luôn là đề tài yêu thích của các ngân hàng. Họ hoạch định chiến tranh, kích động chiến tranh, đầu tư cho chiến tranh, và những lâu đài hoa lệ của các ngân hàng quốc tế lại thường được xây trên đống đổ nát chồng chất tang thương của chiến tranh.

Một thủ đoạn kiếm tiền khác của các ngân hàng quốc tế là tạo ra suy thoái kinh tế. Trước tiên họ mở hầu bao để thúc đẩy tín dụng phát triển, tạo nên tình trạng thị trường bong bóng, rồi sau khi tài sản của người dân đã đổ dồn vào cơn sóng đầu cơ thì rút mạnh vòng quay lưu chuyển tiền tệ, tạo nên suy thoái kinh tế và sụt giá tài sản. Khi giá tài sản sụt xuống chỉ còn có một phần mười, thậm chí là một phần trăm giá trị thực thì họ lại ra tay mua vào. Trong ngôn ngữ của các ngân hàng quốc tế, hành động này được gọi là “xén lông cừu”. Sau khi ngân hàng trung ương tư hữu được thành lập, cường độ và phạm vi của hành động “xén lông cừu” đã đạt đến mức chưa có tiền lệ trong lịch sử.​
 
R

Ryan

Guest
28/4/09
3
12
0
TP. HCM
Chiến tranh Thế giới Lần thứ nhất

Ngày 28 tháng 6 năm 1914, thái tử Ferdinand Vonsterreich-Este của Vương triều Habsburg - vương triều chính thống châu Âu – bị một thích khách trẻ tuổi người Serbia ám sát. Nhưng lúc đó, chẳng ai nghĩ rằng việc này lại trở thành ngòi nổ cho một cuộc đại chiến trên toàn cầu, kéo theo 30 quốc gia, 1,5 tỷ người vào vòng khói lửa và làm thương vong hơn 30 triệu người.

Do một số hiềm kích lúc đó mà châu Âu chia làm hai phe đối đầu với nhau. Một phe gồm Anh, Pháp, Nga và phe kia là Đức, Áo. Hai bên không ngừng chạy đua vũ trang chiến lược, duy trì một đội quân sẵn sàng chiến đấu có quy mô lớn. Chính phủ các nước đều vì vậy mà lún sâu vào vũng lầy nợ nần.

Từ năm 1887 đến năm 1914, tình hình chính trị bất ổn cộng với giá cả đắt đỏ vẫn bám chặt châu Âu. Chính phủ các nước châu Âu vì chạy đua vũ trang mà lâm vào tình trạng phá sản nhưng vẫn nhìn nhau bằng con mắt đối địch. Trong khi đó, hệ thống ngân hàng châu Âu do dòng họ Rothschild xây dựng và phát triển đã cung cấp các khoản vay cho cả hai bên, và dốc sức xúi dục đối đầu quân sự.

Đến năm 1914, các Chính phủ gần như hoàn toàn phá sản và không thể đủ sức gánh vác một cuộc chiến quy mô lớn. Tuy quân đội của họ luôn ở tư thế sẵn sàng tham chiến, nhưng lại không đủ sức chi trả các khoản chi phí chiến tranh khổng lồ. Trong một bối cảnh như vậy, nếu một nước tham chiến thua trận thì nền kinh tế của nước đó sẽ hoàn toàn tê liệt. Còn nếu thắng trận thì cũng chẳng có gì để mà hân hoan, vì các nước thua trận cũng không có gì để mà bồi hoàn chi phí chiến tranh cho nước thắng trận.

Như vậy, có thể thấy rõ ràng là không thể diễn ra một cuộc chiến quy mô lớn. Châu Âu tiếp tục kéo dài tình trạng bất ổn chính trị và giá cả leo thang, mãi cho đến khi có sự ra đời của Cục dự trữ liên bang Mỹ. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất sẽ không thể diễn ra nếu không có sự ra đời của Cục dự trữ liên bang Mỹ.

Lúc này, Mỹ là cường quốc công nghiệp số một thế giới. Và ngay khi đề án Cục dự trữ liên bang đã được thông qua vào năm 1913, các nhà ngân hàng quốc tế lập tức bắt tay hành động. Ngày 3 tháng 8 năm 1914, ngân hàng của Rothschild ở Pháp đã gửi thông báo cho Morgan đề nghị lập tức chuẩn bị một khoản tín dụng trị giá 100 triệu đô-la Mỹ để Pháp mua vật tư từ Mỹ. Khi nghe tin, tổng thống Wilson lập tức phản đối, trong khi William Jennings Bryan – Bộ trưởng ngoại giao của Mỹ lúc bấy giờ - lên án khoản cho vay này là “giao dịch phi pháp xấu xa nhất”.

Đức và Mỹ cho tới thời điểm năm 1914 chưa từng kết giao với nhau trong kinh tế và chính trị. Ở Mỹ, có khoản 8 triệu người Mỹ gốc Đức, chiếm khoản 10% dân số Mỹ, và khi lập quốc, suýt nữa thì tiếng Đức đã trở thành quốc ngữ của Mỹ. Người Mỹ gốc Đức có sức ảnh hưởng chính trị không nhỏ, thêm vào đó người nhập cư gốc Ailen vốn dĩ không thiện cảm với Anh. Trong quá khứ nước Mỹ cũng nhiều phen giao chiến với Anh. Nên ở giai đoạn này Chính phủ Mỹ luôn giữ một thái độ trung lập, và kiên quyết phản đối chiến tranh.

Điều này làm cho các nhà ngân hàng sốt ruột như kiến bò trong chảo nóng. Các nhà tài phiệt ngân hàng bèn nghĩ ra một kế sách tạm thời – cấp tín dụng cho các nước đồng minh (Anh, Pháp) để mua vật tư của Mỹ thay vì cho các nước này vay tiền thông qua việc mua công trái. Dưới sức ép của các nhà ngân hàng, Wilson buộc phải đồng ý, vì thời gian bầu cử tổng thống mới cho nhiệm kỳ tiếp theo sắp đến gần. Wilson ngày càng nghiên về lập trường của các nhà ngân hàng trong vấn đề tham chiến với hy vọng tái đắt cử lần hai.

Cỗ máy chiến tranh vốn im lặng quá lâu cuối cùng cũng đã có thể khởi động nhờ sự hổ trợ tài chính của Cục dự trữ liên bang Mỹ.

Trong giai đoạn sơ khởi và suốt thời gian diễn ra cuộc chiến Cục dự trữ liên bang Mỹ đã cung cấp cho các nước đồng minh là Anh và Pháp nhiều khoản tín dụng khổng lồ trị giá 3 tỷ đô-la. Ngân hàng Morgan thu 1% phí thủ tục, nghĩa là ngân hàng này đã xơi trọn 30 triệu đô-la.

Cuộc chiến tranh khiến cho vật tư tiêu hao với tốc độ chống mặt. Chiến tranh đã khiến cho các nước tham chiến bất chấp mọi giá để theo đuổi, bất chập mọi giá để vay ngân hàng. Đó là lý do giải thích tại sao chiến tranh luôn là điều mà các nhà ngân hàng mong chờ và yêu thích.

Do việc phát hành các khoản cho vay quy mô lớn để trợ giúp tài chính cho cuộc chiến châu Âu nên lượng tiền tệ của Mỹ giảm đi ghê gớm. Chính phủ Mỹ bắt đầu tăng thêm lượng công trái khổng lồ. Cục dự trữ liên bang tiếp nhận công trái và phát hành chi phiếu Cục dự trữ liên bang (Federal Reserve Note) với hạn ngạch ồ ạt hòa vào dòng chảy tiền tệ bổ sung cho sự thiếu hụt tiền tệ do các khoản vay chiến tranh của châu Âu gây nên. Kết quả là chỉ trong vòng 4 năm kể từ khi Cục dự trữ liên bang đi vào hoạt động (1916 đến 1920), số công trái Mỹ đã tăng gấp 25 lần, từ 1 tỷ đô-la lến đến 25 tỷ đô-la. Tất cả số công trái của Mỹ đề dựa trên những khoản thuế chưa nộp của người dân Mỹ để thế chấp. Nhờ chiến tranh, các nhà tài phiệt ngân hàng kiếm được một khoản tiền khổng lồ trong khi đó người dân lại mất tiền, mất sức, và cả máu.​
 
Sửa lần cuối:
R

Ryan

Guest
28/4/09
3
12
0
TP. HCM
Nước Mỹ tham chiến

Khoản vay 3 tỷ đô-la mà Mỹ cung cấp cho các nước đồng minh và khoản vật tư xuất khẩu trị giá 6 tỷ đô-la Mỹ vẫn chưa được hoàn trả. Nếu như Đức dành thắng lợi thì công trái của các nước đồng minh hiện nằm trong tay của các nhà tài phiệt ngân hàng sẽ chẳng đáng một xu. Vì muốn bảo vệ các khoản cho vay của mình mà Morgan, Rockefeller, Paul Warburg đã đồng tâm hiệp lực đẩy nước Mỹ vào cuộc chiến tranh.

Nguồn tài chính mà Mỹ hổ trợ cho các nước đồng minh hiện đã là một gánh nặng cho nước này khiến nước Mỹ cũng không đủ nguồn tài chính để tham chiến. Nên để tăng thêm nguồn tài chính, các nhà ngân hàng đã nghĩ ra nhiều kế sách hơn nữa: “Cuộc xung đột khiến chúng ta phải suy nghĩ thêm một bước phát triển khái niệm thuế thu nhập – một nguồn vốn quan trọng vẫn chưa được khai thác”. Dự luật thuế thu nhập đã được xây dựng để phục vụ cho chiến tranh.

Lưu ý rằng, thuế thu nhập ở đây có nghĩa là thuế thu nhập công ty chứ không phải là thuế thu nhập cá nhân. Trong năm 1916, các nhà tài phiệt ngân hàng đã hai lần tìm cách để Chính phủ thông qua Dự luật yêu cầu nộp thuế thu nhập cá nhân, nhưng cả hai lần, cuối cùng đều bị Tòa án tối cao bác bỏ. Ở Mỹ, quy định đóng thuế thu nhập cá nhân từ trước cho đến nay vốn chẳng có pháp luật làm căn cứ.

Ngày 28 tháng 7 năm 2006, bộ phim “Nước Mỹ từ tự do đến chủ nghĩa phát xít” (America: From Freedom to Fascism) được đưa ra công chiếu rộng rãi ở Mỹ. Ống kính của Aaron Russo – đạo diễn điện ảnh nổi tiếng người Mỹ từng 6 lần nhận đề cử giải Oscar – đã thể hiện một sự thật trần trụi. Khi được công chiếu tại liên hoan phim Canes năm 2006, bộ phim đã gây chấn động mạnh mẽ cho công chúng. Sau khi chứng kiến một cảnh tượng chân thực về sự khác biệt của Chính phủ Mỹ so với những gì họ rêu rao (“chúng tôi tham chiến vì nguyên tắc dân chủ và đạo đức”) và những thế lực tài chính phía sau lưng nó thì cảm giác đầu tiên của tất cả khán giả lúc đó thật khó tả nổi. Trong tổng số 3.000 rạp chiếu phim ở Mỹ, chỉ có 5 rạp dám công chiếu bộ phim này.

“Hòa ước Versailles”: Bản hợp đồng ngừng bắn kỳ hạn 20 năm

Ngày 11 tháng 11 năm 1918, cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, tàn khóc và đẫm máu cuối cùng cũng đã hạ màn. Là nước chiến bại, Đức đã bị mất đi 13% lãnh thổ, đồng thời phải chịu trách nhiệm bồi thường chi phí chiến tranh 32 tỷ đô-la, ngoài ra mỗi năm còn phải chịu thêm khoản lãi suất 500 triệu đô-la, bị trưng thu 26% khoản phí ngoài định mức đối với hàng hóa xuất khẩu và mất luôn quyền kiểm soát đối với các xứ thuộc địa. Số lượng lục quân chỉ được giữ lại 100 nghìn quân, các chiến hạm chủ lực của hải quân không được vượt quá 6 cái, không được trang bị các loại khí tài hạng nặng như tàu ngầm, máy bay, xe tăng hoặc trọng pháo.

David Loyd George – Thủ tướng Anh – đã từng tuyên bố: “phải đem được tiền về cho dù có phải lục soát hết túi của người Đức đi chăng nữa”, nhưng ông ta cũng thừa nhận: “Văn kiện [hòa ước] mà chúng ta soạn thảo đã gieo mầm cho cuộc chiến tranh 20 năm sau. Những điều kiện mà các bạn áp đặt cho người Đức khiến người Đức hoặc là không thể tuân thủ điều ước, hoặc là có thể phát động chiến tranh”. Curzon – Bộ trưởng ngoại giao Anh cũng có cách nhìn tương tự, ông nói: “Hòa ước này sẽ chẳng thể đem lại hòa bình, mà nó chỉ có thể là một bản hòa ước đình chiến có thời hạn 20 năm mà thôi”.

Tháp tùng tổng thống Wilson trong cuộc vi hành đến Paris gồm có: Cố vấn tài chính cao cấp Paul Warburg, Morgan và luật sư Felix của ông, Thomas Lemon – cổ đông cao cấp của công ty Morgan, Baru – Chủ tịch Ủy ban công nghiệp thời chiến, anh em nhà Dulles (một người sẽ là nhân vật chóp bu của CIA sau này, một người là Bộ trưởng ngoại giao). Sau lưng Thủ tướng Anh là Philip Sassoon – con cháu đích tôn của dòng họ Rothschild. Jeroboam Rothschild – cán bộ tham mưu cao cấp của thủ tướng Pháp Clemenceau. Người dẫn đầu đoàn đại biểu Đức là Max Warburg – anh trai cả của Paul Warburg. Khi các nhà tài phiệt ngân hàng tề tựu đến Paris, trong vai trò chủ nhà, Nam tước Edmond de Rothschild tiếp đãi các vị khách quý nhiệt tình.

Thực tế, hội nghị hòa bình Paris là một cuộc liên hoan của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế. Sau khi phất mạnh nhờ vào các khoản tiền thu được từ cuộc chiến, họ đã tiện tay gieo hạt mầm cho cuộc chiến tiếp theo: Chiến tranh Thế giới lần thứ hai.​
 
R

Ryan

Guest
28/4/09
3
12
0
TP. HCM
Chiến dịch xén lông cừu

Ngày 1 tháng 9 năm 1894, chúng ta sẽ đình chỉ tất cả việc kéo dài các khoản vay. Ngày đó, chúng ta sẽ vét lại hết tiền của mình, sẽ tịch thu và phát mãi các tài sản còn chưa thanh toán hết cho chúng ta, sẽ dùng giá do chúng ta định ra để có được hai phần ba đất đai nông nghiệp tính từ sông Mississippi về phía tây và hàng ngàn hàng vạn hec-ta đất đai ở miền đông nước Mỹ. Những nông dân [mất đất vì phá sản] sẽ biến thành những kẻ làm thuê, chẳng khác gì ở Anh cả.

Hiệp hội các nhà tài phiệt ngân hàng Mỹ, 1891 (sưu tầm tư ghi chép của Quốc hội Mỹ, ngày 29 tháng 4 năm 1913)​

“Xén lông cừu” (fleecing of the flock) là một thuật ngữ chuyên môn trong nội bộ các nhà tài phiệt ngân hàng, nghĩa là việc lợi dụng cơ hội được tạo ra trong quá trình phát triển và suy thoái kinh tế để có được tài sản của người khác chỉ bằng một phần nhỏ giá trị thực của tài sản ấy. Khi các ngân hàng đã khống chế được quyền phát hành tiền tệ của Mỹ thì sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế Mỹ đã trở thành quá trình có thể khống chế chính xác. Hành vi “xén lông cừu” lúc này đối với ngân hàng chẳng khác nào giai đoạn chuyển hóa của những người dân du mục từ săn bắt kiếm sống sang sản xuất ổn định nhờ biết chăn nuôi một cách khoa học.

Thế chiến thứ nhất đã đem đến cho nước Mỹ sự phồn vinh trên diện rộng. Việc mua sắm vật tư chiến tranh với quy mô cực đại đã thúc đẩy sản xuất và dịch vụ của các ngành công nghiệp Mỹ phát triển. Từ năm 1914 đến 1920. Cục dự trữ liên bang Mỹ đã đầu tư những khoản tiền lớn vào lĩnh vực kinh tế. Mức lãi xuất của Cục dữ trữ liên bang ở New York từ 6% trong năm 1914 giảm xuống còn 3% trong 1916, và được duy trì mãi đến năm 1920.

Để cung cấp các khoản vay lớn cho các nước đồng minh, trong vòng hai năm 1917 – 1918, các ngân hàng đã bốn lần tiến hành huy động vốn trên quy mô lớn, gọi là “trái phiếu tự do” (Liberty Bond), lãi suất thì tăng từ 3,5% đến 4 – 5%. Một mục đích hết sức quan trọng của các đợt phát hành tiền tệ và tín dụng này chính là nhằm thu hút lượng tiền tệ và tín dụng mà Cục dữ trữ liên bang Mỹ đã phát hành quá nhiều.

Trong chiến tranh người công nhân được trả lương cao, còn lương thực của nông dân thì bán rất được giá, tình trạng kinh tế của các tầng lớp công nhân thợ thuyền, nâng lên đáng kể. Sau khi chiến tranh kết thúc, do chi phí sinh hoạt và tiêu dùng giảm xuống, nông dân nắm giữ một lượng hiện kim rất lớn, và khoản tài sản khổng lồ này lại không nằm dưới sự khống chế của các ngân hàng Phố Wall. Đa số nông dân ở miền Tây và Trung của nước Mỹ thường đem tiền gửi vào ngân hàng địa phương để cất giữ. Vì mâu thuân với ngân hàng quốc tế New York, các ngân hàng vừa và nhỏ này không tham gia vào hệ thống ngân hàng Cục dự trữ liên bang, vừa không ủng hộ đối với việc cho vay chiến tranh ở châu Âu. Vì thế, các lão làng ở Phố Wall muốn tìm cơ hội để “chỉnh đốn” các ngân hàng “nhà quê” này đồng thời chuẩn bị ra tay “xén lông cừu” đối với “bầy cừu” nông dân béo múp.

Các ngân hàng Phố Wall trước hết xây dựng một cơ cấu được gọi là "Ủy ban cho vay Nông nghiệp Liên bang" (Federal Farm Loan Board) chuyên “khuyến khích” nông dân đem những đồng tiền mồ hôi xương máu của mình đầu tư vào việc mua đất đai mới. Tổ chức này chịu trách nhiệm cung cấp các khoản vay dài hạn, và đương nhiên, đối với nông dân thì điều này chẳng khác nào cảnh “buồn ngủ gặp chiếu manh”. Vì thế rất nhiều nông dân đã xin vay vốn dài hạn của các ngân hàng quốc tế dưới sự điều phối của tổ chức này, và nộp khoản chi đầu tiên với tỷ lệ cao.

Nhưng những người nông dân có thể chẳng bao giờ ngờ được rằng, họ đã rơi vào cái bẫy được thiết kế hết sức tinh vi.

Trong các tháng 4, 5, 6, 7 của năm 1920, lĩnh vực công nghiệp và thương mại đạt mức tăng trưởng tín dụng cao. Điều này đã giúp các nhà công nghiệp tháo gỡ các khoản vay tín dụng. Riêng chỉ có nông dân là bị từ chối khi muốn vay tín dụng. Đây là một quả bộc phát tài chính được Phố Wall thiết kế chính xác. Nó chỉ nhằm tước đoạt tài sản của nông dân và hủy hoại những vùng đất nông nghiệp của các ngân hàng vừa và nhỏ đã dám cự tuyệt lệnh của Cục dữ trữ liên bang.

Trong một hội nghi, Owen – Chủ tịch Ngân hàng thượng nghị viên và Ủy ban tiền tệ - đã nói rằng: “Đầu năm 1920, nông dân là những người có cuộc sống sung túc. Họ vay được nhiều tiền để mua nhà cửa ruộng vườn. Cuối năm 1920, việc các ngân hàng siết chặt tín dụng về tiền tệ một cách đột ngột đã khiến cho nông dân phá sản hàng loạt. Sự phát sản của nông dân đã xảy ra trong năm 1920 tương phản hoàn toàn với điều phải xảy ra”.

Trước cuộc khủng hoảng này, vào ngày 8 tháng 5 năm 1920, Ủy ban Cục dữ trữ liên bang Mỹ đã tiến hành một hội nghị bí mật. Họ họp kín với nhau suốt một ngày, biên bản hội nghị dày đến 60 trang. Nhưng mãi đến ngày 19 tháng 2 năm 1923, những biên bản này mới xuất hiện trong hồ sơ của thượng nghị viện. Hồ sơ chỉ ra rằng, chỉ có thành viên hội đồng quản trị loại A, tức thành viên của Ủy ban tư vấn Cục dự trữ liên bang tham gia hội nghị này. Thành viên hội đồng quản trị loại B (những người đại diện cho thương nghiệp, mậu dich, và nông nghiệp) thì không được mời. Tương tự, những người thuộc nhóm C, đại diện cho người dân cũng không được mời dự họp.

Những thành viên thuộc các ngân hàng lớn tham gia vào hội nghị bí mật đã đi đến thống nhất chính sách thắt chặt tín dụng, khiến cho thu nhập của Mỹ giảm 15 tỷ đô-la trong năm thứ hai, mấy triệu người Mỹ thất nghiệp, giá đất đai và trang trại sụt giảm đến 20 tỷ đô-la.

William J. Bryan – Bộ trưởng ngoại giao của Tổng thống Wilson – đã nêu ra đích xác căn nguyên của vấn đề: “Cục dự trữ liên bang Mỹ lẽ ra phải là người bảo vệ nông dân, nhưng trên thực tế lại trở thành kẻ thù lớn nhất của nông dân. Việc siết chặt tín dụng đối với nông nghiệp là một tội ác có âm mưu”.

Sau khi vui mừng nhờ bội thu từ hành động “xén lông cừu” đối với nông nghiệp, hơn nữa, còn quét sạch được các ngân hàng nhỏ ở vùng Trung – Tây nước Mỹ. Cục dự trữ liên bang Mỹ lại bắt đầu buông lỏng vong quay lưu chuyển tiền tệ.​
 
R

Ryan

Guest
28/4/09
3
12
0
TP. HCM
Âm mưu năm 1927 của Ngân hàng Quốc tế dẫn đến cuộc đại suy thoái năm 1929

Nhờ vào sự ủng hộ của công ty Morgan và Kuhn Loeb, Benjamin Strong nghiễm nhiên ngồi vào vị trí Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng New York thuộc Cục dự trữ liên bang Mỹ. Và cùng với Montagu Norman – Chủ tịch. Hội đồng quản trị của Ngân hàng Anh, ông đã mưu tính nhiều sự kiện quan trọng trong nền công nghiệp tài chính Anglo-Saxion, trong đó bao gồm cuộc đại suy thoái trên phạm vi toàn thế giới vào năm 1929.

Bố và ông ngoại của Norman đều từng đảm nhiệm vị trí Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Anh – một điều thật đặc biệt trong lịch sử nước này.

Trong cuốn sách “Chính phủ tài chính”, Johnson đã viết rằng: “Với tư cách là một người bạn thân thiết, Strong thường cùng Norman đi nghỉ mát ở miền Nam nước Pháp. Từ năm 1925 đến năm 1928, trong chính sách nới lỏng tiền tệ của New York thì giữ Strong và Norman đã có một thỏa thuận ngầm nhằm khiến cho mức lãi suất của New York thấp hơn mức lãi suất của London. Nhờ vào mối hợp tác quốc tế này, Strong có ý muốn áp chế mức lãi suất của New York, mãi cho đến khi xảy ra hậu quả không thể vãn hồi mới thôi. Chính sách nới lỏng tiền tệ của New York đã kích lệ sự phồn vinh trong những năm 20 của nước Mỹ, dẫn đến phong trào dân chúng đầu cơ một cách điên cuồng.”.

Liên quan đến hiệp định bí mật này, năm 1928, dưới sự chỉ đạo của nghị sĩ Louis McFadden, House Stabilization Hearing đã tiến hành một cuộc điều tra, và kết luận được đưa ra là: Bằng việc thao túng dòng lưu thông của vàng, Ngân hàng Quốc tế đã tạo nên sự sụp đổ của thị trường cổ phiếu Mỹ.

Trên thực tế, Ngân hàng Cục dự trữ liên bang Mỹ ở New York hoàn toàn nắm bắt được toàn bộ hoạt động của Cục này. Cuộc họp gồm 7 vị Chủ tịch của Cục dự trữ liên bang ở Washington chỉ là hình thức, còn hội nghị bí mật thực chất đã được các nhà tài phiệt ngân hàng của châu Âu và ngân hàng Cục dự trữ liên bang Mỹ ở New York tiến hành trước cả tuần lễ. Tuy nhiên, hoạt động nảy chỉ diễn ra ở Washington chưa đến một ngày, lại chỉ là hoạt động mang tính xã giao, vì thế lượng vàng trị giá 500 triệu đô-la Mỹ có được từ quyết sách của hội nghị bí mật New York đã chảy về châu Âu. Một quyết sách quan trọng như vậy mà lại hoàn toàn không được ghi chép trong bất cứ văn bản nào của Washington, từ đó có thể thấy địa vị thực tế của Hội đồng Quản trị 7 người này.

Sau hội nghị bí mật, Ngân hàng Cục dự trữ liên bang ở New York lập tức bắt tay vào hành động, giảm lãi suất từ 4% xuống 3,5%. Chỉ trong năm 1928, họ đã phát hành thêm 60 tỷ đô-la cho các ngân hàng thành viên. Các ngân hàng này dùng trái phiếu của mình để thế chấp. Nếu được hoán đổi sang vàng thì khoản tiền này sẽ nhiều gắp 6 lần tổng lượng vàng lưu thông trên toàn thế giới lúc bấy giờ.

Lượng đô-la phát hành thông qua phương thức này cao gấp 33 lần so với lượng tiền được Cục dự trữ liên bang Mỹ tung ra trước đó. Nhưng điều khiến người ta kinh ngạc hơn là, năm 1929, ngân hàng New York lại phát hành thêm 58 tỷ đô-la cho các ngân hàng thành viên vay.

Thị trường cổ phiếu New York lúc đó cho phép các nhà đầu tư mua vào lượng cổ phiếu bằng 1% vốn, nếu có nhu cầu, họ có thể vay thêm của ngân hàng. Trong khi đang nôn nóng khó chịu thì các ngân hàng nắm giữ tín dụng hạn ngạch lớn lại gặp được nhà đầu tư đói khát tham lam.

Ngân hàng có thể vay tiền từ Cục dự trữ liên bang với lãi xuất 5% và cho các nhà đầu tư chứng khoán vay lại với lãi suất 12%. Như vậy, họ có thể hưởng mức chênh lệch lãi suất 7% một cách ngon lành.

Lúc này, thị trường cổ phiếu New York có muốn không tăng giá cũng không thể được. Người dân Mỹ bị kích động đem hết mọi của cải tích lũy có được để “đầu tư” vào thị trường cổ phiếu. Thậm chí ngay cả các chính trị gia ở Washington cũng bị các trùm tài chính Phố Wall kích động. Trong một buổi nói chuyện chính thức, Melo – bộ trưởng tài chính – đã đảm bảo rằng, thị trường cổ phiếu vẫn chưa quá cao. Tổng thống Coolidge cũng xác nhận rằng, việc mua bán cổ phiếu lúc này vẫn đang rất tốt.

Tháng 3 năm 1928, khi trả lời chất vấn tại thượng nghị viên về mức lãi suất cho vay đối với các nhà đầu tư chứng khoán, Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ đã trả lời rằng: “Không thể nói chính xác các khoản vay của nhà đầu tư chứng khoán có quá cao hay không, nhưng tôi chắc chắn họ là những người cầu toàn và bảo thủ”.

Ngay sau khi Cục dự trữ liên bang bắt đầu loại bỏ chính sách buông lỏng tiền tệ được thực hiện từ năm 1927, ngày 6 tháng 2 năm 1929, Norman – Chủ tịch Ngân hàng Anh đã bí mật đến Mỹ. Các ngân hàng Anh chừng như đã thực hiện xong mọi công tác chuẩn bị cho một sự kiện lớn, và thời cơ để phía Mỹ ra tay cũng đã đến.

Tháng 3 năm 1929, tại đại hội cổ đông thường niên của Ngân hàng Quốc tế, Paul Warburg – bậc thầy tài chính của Mỹ - đã cảnh báo rằng: “Nếu như sự tham lam không kiểm soát được này vẫn tiếp tục thì nguy cơ khủng hoảng nổ ra không chỉ đánh vào bản thân các nhà đầu tư, mà còn khiến cho cả nước Mỹ rơi vào thảm họa suy thoái.”

Paul vốn là người luôn giữ được thái độ trầm tĩnh trong suốt những năm tháng mà “sự tham lam không được kiểm soát” ngự trị, và bây giờ lại đột ngột nhảy ra cảnh báo nguy cơ khủng hoảng. Tờ New York Times lập tức cho đăng bài phát biểu của Paul, và trong tích tắc, bài báo đã gây nên một cơn khủng hoảng trên thị trường tài chính.

Ngày 20 tháng 4 năm 1929, giới tài phiệt ngân hàng ra phán quyết “khai tử” đối với thị trường cổ phiếu. Tờ New York Times ngày hôm đó đã phát đi một thông tin quan trọng:
Ủy ban tư vấn liên bang họp kín tại Washington

Ủy ban tư vấn liên bang đã xây dựng khung nghị quyết và giao cho Hội đồng Quản trị của Cục dự trữ liên bang Mỹ, nhưng mọi thông tin liên quan đến việc này vẫn được giữ kín. Các động thái tiếp theo của Ủy ban tư vấn liên bang và Hội đồng Quản trị Cục dự trữ liên bang vẫn chưa được tiết lộ. Cách thức bảo mật thông tin của lần họp kín này hết sức nghiêm ngặt. Các phóng viên chỉ nhận được những câu trả lời nữa vời.​
Ngày 9 tháng 9 năm 1929, Cục dự trữ liên bang Mỹ nâng lãi suất cho vay lên mức 6%. Ngay lập tức, ngân hàng Cục dự trữ liên bang Mỹ tại New York cũng tăng lãi suất cho vay đầu tư chứng khoán từ 5% lên 20%. Các nhà đầu tư chứng khoán chỉ còn có cách bỏ của chạy lấy người. Thị trường cổ phiếu sụt giá một cách thê thảm chẳng khác gì cảnh vỡ để. Trong suốt tháng 10 và 11, khắp các sàn chứng khoán chỉ thấy mỗi lệnh bán. Khối tài sản trị giá 160 tỷ đô-la trong nháy mắt đã tan thành mây khối. Xin lưu ý rằng, 160 tỷ đô-la là một khoản tiền lớn, gần như tương đương với tổng vật tư khổng lồ mà nước Mỹ đã sản xuất được trong thế chiến thứ hai.

Một nhà đầu tư chứng khoán của Phố Wall đã miêu tả vụ “vỡ để” đó như thế này: “Theo một kế hoạch được dàn xếp chính xác, lượng cung ứng cho vay để đầu tư vào cổ phiếu trên thị trường tiền tệ New York đột ngột giảm mạnh đã gây ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 1929. Trên thực tế, đây là hành động “xén lông cừu” đã được các trùm tài chính quốc tế tính toán nhắm vào công chúng”.

Đối mặt với nền kinh tế Mỹ ảm đạm, ngày 4 tháng 7 năm 2930, tờ New York Times không khỏi bùi ngùi khi đăng những dòng như thế này: “Giá nguyên vật liệu đã rơi xuống mức năm 1913. Do dư thừa lao động, tiền công sụt giảm mà đã có tổng cộng 4 triệu người thất nghiệp. Vì khống chế được Ngân hàng Cục dự trữ liên bang Mỹ New York và Hội đồng Quản trị Cục dự trữ liên bang nên Morgan đã khống chế được cả hệ thống Cục dự trữ liên bang Mỹ”.

Phố Wall không ngừng áp dụng thủ đoạn tạo ra khủng hoảng tài chính để loại bổ các phần tử đối lập. Từ năm 1930 đến năm 1933, tổng cộng đã có 8.812 ngân hàng phải đóng cửa. Do từng tỏ thái độ bằng vai phải lứa với năm đại gia tài chính ở New York đồng thời không chịu vay nợ từ hệ thống Cục dự trữ liên bang Mỹ nên phần lớn các ngân hàng vừa và nhỏ đã phải nối đuôi nhau phá sản.​
 
R

Ryan

Guest
28/4/09
3
12
0
TP. HCM
Mưu đồ thực sự của việc hoạch định Đại suy thoái

Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc đại suy thoái tài chính năm 1929 là một màn kịch đã được các đại gia ngân hàng đạo diễn tại hội nghị bí mật năm 1927. Do lãi suất trên thị trường New York bị hạ thấp một cách cố ý và lãi xuất trên thị trường London bị nâng cao một cách có lợi nên sự chênh lệch lãi xuất giữa hai thị trường đã khiến cho dòng vàng của Mỹ chảy về Anh, giúp Anh và các quốc gia châu Âu khác khôi phục chế độ bản vị vàng.

Trên thực tế, các nhà tài chính châu Âu đã hiểu rõ rằng, việc tạo ra lạm phát tiền tệ nhằm trước đoạt tài sản sẽ mang lại hiệu quả cao hơn rất nhiều so với việc phát hành tiền tệ và cho phép hoán đổi tiền giấy sang vàng sẽ có thể khống chế các ngân hàng tạo ra nạn lạm phát tiền tệ để kiếm lợi. Vậy tại sao giới tài chính châu Âu mà đại diện là các nhà ngân hàng Anh lại muốn khôi phục bản vị vàng?

Câu trả lời là các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đang chơi một ván cờ thú vị.

Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất kết thúc với thất bại của Đức. Số tiền bồi thường chiến tranh khổng lồ đương nhiên không thể do dòng họ Rothschild và dòng họ Warburg của nước Đức gánh vác. Nước cờ đầu tiên mà cả hai dòng họ này thực hiện là khởi động bộ máy tạo ra nạn làm phát tiền tệ để từ đó vơ vét tài sản tích lũy của người dân. Và như vậy, nhân loại đã hiểu biết được uy lực siêu cấp của nạn lạm phát tiền tệ.

Trong thời kỳ chiến tranh từ năm 1913 đến năm 1918, tốc độ phát hành tiền tệ của Đức đã tăng gắp 8,5 laanfm đồng mác Đức đã sụt giá đến 50% so với đồng đô-la Mỹ. Bắt đầu từ năm 1921, tốc độ phát hành tiền tệ của Ngân hàng Trung ương Đúc đã tăng phi mã, năm 1921 tăng gấp 5 lần so với năm 1918, năm 1922 tăng 10 lần so với năm 1921, năm 1923 tăng vô vàn lần so với năm 1922. Từ tháng 8 năm 1923, vật giá leo thang chống mặt, một chiếc banh mì hay một phong thư đã có giá 1000 mác. Mỗi ngày, một công nhân Đức được trả tiền công hai lần nhưng số tiền ấy “bốc hơi” nhanh chống chỉ sau một giờ.

Chính vì hành vi chèn ép tầng lớp trung lưu trong xã hội khiến họ trở nên trắng tay mà các nhà tài phiệt ngân hàng Đức đã gieo vào lòng người dân sự câm phẫn tột độ đồng thời tạo ra cơ sở cho Đảng phát xít lên nắm quyền sau này. So với cảnh ngộ của nước Pháp sau khi bại trận trong cuộc chiến Phổ - Pháp năm 1870 thì những khó khăn bi thảm mà người dân Đức phải gánh chịu còn nặng nề hơn rất nhiều. Có thể thấy rằng, mầm mống của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã nảy nầm từ năm 1923.

Khi tài sản của người Đức bị vơ vét cạn kiệt thì đồng mác Đức phải được ổn định trở lại. Dưới sự điều phối của các nhà ngân hàng quốc tế, vàng bạc của nước Mỹ trở thành chiếc phao cứu sinh cho việc ổn định tiền tệ tại Đức.

Nước cờ tiếp theo do các nhà tài phiệt ngân hàng Anh tiến hành. Sau khi Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất bùng nổ năm 1914, tàu ngầm Đức nhiều lần tập kích vào Đại Tây Dương, tàu vận chuyển vàng của Anh không thể nào tự do xuất cảng. Các nhà tài phiệt ngân hàng Anh buộc phải tuyên bố tạm thời ngừng chuyển đổi vàng, và như vậy, bản vị vàng của đồng bảng Anh đã trên nên hữu danh vô thực.

Năm 1924, Churchill nhậm chức Bộ trưởng Tài chính Anh. Vì không phải là chuyên gia trong lĩnh vực tài chính nên Churchill đã không nhận ra âm mưu khôi phục bản vị vàng của các nhà ngân hàng – những người cứ khăng khăng cho rằng cần phải bảo vệ vị thế tuyệt đối của đồng bảng Anh trên thị trường tài chính thế giới. Ngày 13 tháng 5 năm 1925, Anh thông qua Dự luật Bản vị Vàng (Gold Standard Act). Lúc này, do trải qua những mất mát nặng nề của chiến tranh nên thực lực kinh tế của Anh không còn mạnh so với Mỹ. Thậm chí ngay tại châu Âu, Anh cũng không còn giữ được vị thế nước lớn, vì thế việc ép buộc khôi phục bản vị vàng sẽ khiến đồng bảng Anh tăng giá và tác động nghiệm trọng đến sức cạnh tranh xuất khẩu của Anh đồng thời gây ra hậu quả xấu về kinh tế như giá nguyên liệu thấp, tiền lương giảm đi, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao.

Lúc này, Keynes – một bậc tinh anh quyền quý từng là đại diện của Bộ Tài chính Anh tại hội nghị hòa bình Paris năm 1919 – kiên quyết phản đối những điều khoản khắc nghiệt áp dụng cho nước Đức, thậm chí sẵn sàng tư chức để tỏ rõ sự bất đồng với các thế lực ngân hàng London. Tại Ủy ban Macmillan chuyên về điều tra tính khả thi của bản vị vàng, Keynes đã khẳng khái trình bày về tác hại của bản vị vàng. Và theo cách nhìn của ông thì vàng chỉ là “di tích dã man”, là rào cản đối với sự phát triển của nền kinh tế. Trong khi đó, Norman – Chủ tịch Ngân hàng Anh – lại cho rằng bản vị vàng là thứ không thể thiếu đối với các ngân hàng chân chính. Theo Norman thì cho dù gánh nặng của nước Anh có như thế nào, các ngành nghề chịu tổn thất nghiệm trong ra sao, mọi người cũng phải chấp nhận chế độ bản vị vàng để thể hiện danh dự hàng đầu của các nhà tài phiệt ngân hàng London. Người dân Anh bị gọi là những kẻ hồ đồ. Và cũng giống tình hình ở Mỹ, hình ảnh của các nhà ngân hàng Anh cũng không được đánh giá tốt đẹp gì trong mắt người dân. Theo họ, những gì mã các nhà ngân hàng ủng hộ tất nhiên đều không tốt đẹp gì, còn những ai dám phê phán mãnh mẽ quan điểm của các nhà ngân hàng sẽ giành được sự mếm mộ của dân chúng.

Đây mới là phần đặc sắc nhất của vở kịch.

Với lai lịch rất đơn giản, Keynes đã diễn xuất rất tốt vai “vệ sĩ” của nhân dân, trong khi các nhà ngân hàng thì xuất hiện với tư cách là tín đồ của vàng. Một màn kịch thật thú vị với kẻ tung người hứng nhịp nhàng, cũng vì thế mà dự luận và lòng dân bị thao túng một cách dễ dàng.

Quả nhiên, mọi việc không nằm ngoài dự đoán của Keynes cũng như các nhà tài phiệt ngân hàng Anh. Sau khi khôi phục bản vị vàng, nền kinh tế Anh đã tuột dốc không phanh, tỉ lệ thất nghiệp từ 3% năm 1920 đã tăng vọt lên 18% vào năm 1926. Các cuộc bãi công diễn ra khắp nơi trên nước Anh, chính trị rơi vào cảnh hỗn loạn, chính phủ Anh đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nghiệm trọng.

Tuy nhiên, xin nhớ rằng, điều mà các nhà tài phiệt ngân hàng luôn khát khao mong mỏi chính là khủng hoảng. Chỉ khi nào tạo nên khủng hoảng thì các nhà tài phiệt ngân hàng mới có thể thúc đẩy cuộc “cách mạng tài chính” theo ý đồ của họ. Năm 1928, thông qua Dự luật Tiền tệ và Giấy bạc Ngân hàng (Currency and Bank Notes Act), nghị viên Anh đã tháo gỡ những rằng buộc về giới hạn trong việc dùng công trái để đả bảo cho đồng bảng Anh – một hình thức xiềng xích trói buộc các nhà ngân hàng Anh suốt 84 năm. Năm 1844, nước Anh ban hành pháp lệnh nhằm hạn chế các ngân hàng trong việc phát hành 29,75 triệu bảng Anh được đảm bảo bằng công trái. Bên cạnh đó, các nhà ngân hàng phải dùng vàng để đảm bảo cho việc phát hành tiền giấy. Cũng giống như sự xuất hiện của Cục dự trữ liên bang Mỹ, việc dùng công trái làm thế chấp trong phát hành tiền tệ thật sự là một giấc mộng đẹp đối với các nhà ngân hàng Anh. Chỉ trong mấy tuần sau khi pháp lệnh mới được thông qua, Ngân hàng Anh đã phát hành 260 triệu bảng bằng công trái. Pháp lệnh mới còn trao quyền phát hành công trái không giới hạn cho ngân hàng Anh trong những tình huống khẩn cấp, miễn sao sau đó được Bộ Tài chính và Quốc hội chấp thuận. Và như vậy, quyền phát hành tiền không hạn chế của Cục dự trữ liên bang Mỹ cuối cùng cũng nằm trong tay Ngân hàng Anh.

Nước cờ thứ ba là các nhà ngân hàng thực hiện là hành động “xén lông cừu”. Sau hội nghị bí mật năm 1927, do chính sách hạ lãi xuất của Cục dự trữ liên bang Mỹ nên một lượng vàng khá lớn của Mỹ trị giá 500 triệu đô-la đã chảy ra nước ngoài. Năm 1929, Cục dự trữ liên bang lại tiếp tục nâng lãi suất khiến cho các ngân hàng thiếu vàng nghiêm trọng và không thể thực hiện dịch vụ cho vay. Người dân Mỹ cũng vì thế mà trở nên khốn đốn. Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đã thi nhau dốc vốn thu mua một lượng lớn cổ phiếu tốt với giá rẽ như bèo. Nghị sĩ McFadden đã miêu tả thế này: “Mới đây, chỉ nội trong một bang đã có tới 60.000 ngôi nhà và nông trường bị phát mãi trong một ngày. Ở quận Auckland thuộc bang Michigan có 71.000 chủ nhà và chủ trang trại bị tống ra khỏi cửa. Những tình cảnh tương tự đang diễn ra ở từng bang của nước Mỹ.”

Trong cơn đại nạn kinh tế chưa từng thấy này, chỉ có một ít người thuộc tầng lớp thượng lưu có mối quan hệ mật thiệt với dòng họ Rothschild mới biết được diễn biến của màn kịch lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Những người này đã nhanh tay bán tháo tất cả cổ phiếu mình có để tập trung đầu cơ công trái chính phủ. Những kẻ không có dính dáng gì tới các ông trùm ngân hàng, cho dù có giàu sang đến mấy cũng không thể tránh được tai họa. Những công ty có dính dáng đến các ông trùm tài chính bao gồm J.P Morgan và Kuhn Loeb, ngoài ra cũng còn có một số “khách hàng ưu tiên cánh hẩu”, một số chính trị gia quan trọng mà các nhà ngân hàng muốn duy trì mối quan hệ hữu hảo hoặc những nhà cầm quyền của các quốc gia có mối quan hệ tốt với họ.

Khi Mirrison từ chức tại Cục dự trữ liên bang Mỹ, trên tờ Newsweek số ra ngày 30 tháng 5 năm 1936 đã xuất hiện những dòng bình luận như sau: “Người ta cho rằng, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã mất đi một nhân vật tài năng, Năm 1929 (trước khi thị trường cổ phiếu lâm vào khủng hoảng), Morrison đã triệu tập một hội nghị và ra lệnh cho các ngân hàng trong hệ thống của ông phải chấm dứt cho vay đầu tư chứng khoán trước nằm 1 tháng 9. Vì thế, các doanh nhân này mới dễ dàng phát đạt trong cơn suy thoái sau này.”

Tài sản của Joe Kennendy đã tăng từ 4 triệu đô-la vào năm 1929 lên đến 100 triệu đô-la vào năm 1935, nghĩa là gắp 25 lần. Trước khi cuộc khủng hoảng xảy ra, Bernard Baruch đã bán sạch cổ phiếu vốn có của mình để đầu tư vào công trái. Vài này trước “thứ Ba đen tối” (Ngày 29 tháng 10 năm 1929), Henry Morgenthau đã tới ngân hàng và ra lệnh cho công ty của ông trong vòng ba ngày phải bán hết lượng cổ phiếu giá 60 triệu đô-la Mỹ. Các nhân viên dưới quyền của Henry cảm thấy khó hiểu và khuyên ông nên bán dần trong mấy tuần. Nhưng Henry liền nổi cáu quát ngay vào mặt nhân viên mình rằng: “Tôi đến đây không phải để tranh luận với anh. Hãy làm theo lệnh tôi đi!”

Sau gần 80 năm, khi nhìn lại giai đoạn lịch sử này, chúng ta vẫn phải thán phục mưu trí thương trường của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế. Thậm chí cho đến ngày nay, không ít người vẫn còn chưa tin rằng, số phận của họ đã bị các nhà tài phiệt ngân hàng này thao túng.

Sau mùa bội thu từ vụ “xén lông cừu” của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế, “tư tưởng tiền tệ giá rẻ” của Keynes đã trở thành cỗ máy tạo ra sự giàu cố cho các đại gia ngân hàng.​
 

Xem nhiều