Sau ngày 30-4-1975, gia đình tôi rời Sài Gòn đi kinh tế mới. Năm ấy tôi tuổi 15. Cuộc sống nông gia vào giai đoạn này muôn vàn cơ cực, thiếu thốn mọi điều. Đó là lẽ thường tình của một đất nước sau thời gian dài chiến tranh tàn phá, nay đang từng bước xây dựng lại.
Sau sáu năm vừa học vừa lao động vất vả, sức lực của tôi đã bị vắt kiệt. Người teo tóp, đen đúa, cùng những trận nhức đầu như búa bổ xuất hiện ngày một dày hơn.
Làng tôi ở, dân số khoảng 7.000 người nhưng chỉ có hai ông y tá già với mớ kiến thức y học giới hạn! Do vậy, chỉ chữa được những bệnh vặt vãnh, bệnh nặng đành bó tay. Họ hiếm khi đi thăm bệnh về đêm, vì đường quê tối tăm, trắc trở và tuổi già cũng là một lực cản. Bệnh của tôi vượt ngoài tầm tay của họ. Về Sài Gòn để chữa là chuyện bất khả thi, vì gia đình tôi quá nghèo, do vậy cứ phải sống chung với những cơn đau có thể xuất hiện bất cứ khi nào.
Lần ấy, sau một ngày dầm mưa mùa cấy, tôi nổi cơn đau thừa sống thiếu chết, cái đầu muốn vỡ tung ra. Lối xóm kéo đến rất đông, vì nghe tiếng rên la quá thảm. Mẹ tôi sợ hãi tột cùng, bà sợ con chết nên cuống cuồng nhờ người cháu đi mời ông y tá gần nhất đến, khi ấy đã 23 giờ đêm. Anh đi một lát thì quay về cùng… cái đèn hột vịt trên tay, nói với mẹ tôi: “Ông không chịu đi mợ ạ! Lại còn nói tại sao cả ngày không đau mà để tới giờ này mới đi mời?”.
Tai tôi nghe rõ mồn một. Trong lòng bỗng trào dâng phẫn uất, oán hận ông y tá không có lương tâm nghề nghiệp. Tôi thề với chính mình: “Nếu qua được trận đau này, mày phải trở thành một người thầy thuốc để tự chữa cho chính mày”.
Hồi phục sau trận bệnh ấy, ngồi ngẫm lại, tôi nhận ra nếu cứ đi sau con bò kéo cái cày thì chắc chắn một điều là sẽ đoản mệnh, và kinh tế vẫn cứ không khá lên được. Thế là tôi xin phép ba mẹ, tự nộp đơn thi vào học ở trường sơ cấp Y tế, rồi tiếp theo là Trung cấp Đông y ở Đồng Nai.
Ba năm là khoảng thời gian tôi vừa đi làm kiếm tiền vừa học. Sau khi ra trường, nhờ kiến thức y học được các thầy cô truyền đạt, nhờ chịu khó miệt mài luyện tập và với quyết tâm chiến thắng bệnh tật, tôi đã tự chữa cho mình khỏi bệnh nhức đầu bằng phương pháp luyện yoga.
Trở về quê nhà, tôi bắt đầu áp dụng những gì đã học nơi nhà trường. Do từng là người bệnh ít tiền bị hắt hủi nên tôi rất thông cảm với những người ốm đau, nhất là người nghèo, người thấp kém thân phận. Mỗi khi tiếp xúc với bệnh nhân, tôi luôn dành thời gian lắng nghe họ tâm sự về gia cảnh, khai báo bệnh trong người… nhờ vậy, giữa tôi và họ có một sự gần gũi, cởi mở, tin tưởng. Theo kinh nghiệm cá nhân tôi thì đây chính là những yếu tố rất quan trọng để người thầy thuốc chữa lành bệnh tật cho bệnh nhân.
Thời gian thấm thoát trôi nhanh, đến nay đã là 28 năm kể từ ngày tôi cơm áo, sách vở đi trọ học. Cuộc sống biến thiên, đất nước cũng vươn lên vượt qua thời gian khổ, nhiều người dân trước nghèo khó thì nay đã có của ăn của để, trong số đó có tôi.
Chẳng phải vì tham gia cuộc thi “Quyết định công việc, đổi thay cuộc sống” tôi mới có dịp nhìn lại dĩ vãng, mà tự tôi rất thường xuyên “ôn cố tri tân”. Có những lúc rảnh việc, quây quần bên mấy đứa con, tôi hay kể cho chúng nghe chuyện “đời xưa” của ba. Mục đích để giáo dục cho con cái biết phấn đấu vượt trên số phận, biết tôn trọng tất cả mọi người, đặc biệt là người cùng khổ.
Ngày nay quay đầu đếm dấu chân xưa, tôi cảm thấy mình rất may mắn khi quyết định “không đi sau con bò”. Nhờ bước rẽ sáng suốt ấy mà giờ đây tôi đã thành đạt trong công việc, có một gia đình hạnh phúc, một ngôi nhà khang trang với đầy đủ tiện nghi.
SƠN KHÊ
Sau sáu năm vừa học vừa lao động vất vả, sức lực của tôi đã bị vắt kiệt. Người teo tóp, đen đúa, cùng những trận nhức đầu như búa bổ xuất hiện ngày một dày hơn.
Làng tôi ở, dân số khoảng 7.000 người nhưng chỉ có hai ông y tá già với mớ kiến thức y học giới hạn! Do vậy, chỉ chữa được những bệnh vặt vãnh, bệnh nặng đành bó tay. Họ hiếm khi đi thăm bệnh về đêm, vì đường quê tối tăm, trắc trở và tuổi già cũng là một lực cản. Bệnh của tôi vượt ngoài tầm tay của họ. Về Sài Gòn để chữa là chuyện bất khả thi, vì gia đình tôi quá nghèo, do vậy cứ phải sống chung với những cơn đau có thể xuất hiện bất cứ khi nào.
Lần ấy, sau một ngày dầm mưa mùa cấy, tôi nổi cơn đau thừa sống thiếu chết, cái đầu muốn vỡ tung ra. Lối xóm kéo đến rất đông, vì nghe tiếng rên la quá thảm. Mẹ tôi sợ hãi tột cùng, bà sợ con chết nên cuống cuồng nhờ người cháu đi mời ông y tá gần nhất đến, khi ấy đã 23 giờ đêm. Anh đi một lát thì quay về cùng… cái đèn hột vịt trên tay, nói với mẹ tôi: “Ông không chịu đi mợ ạ! Lại còn nói tại sao cả ngày không đau mà để tới giờ này mới đi mời?”.
Tai tôi nghe rõ mồn một. Trong lòng bỗng trào dâng phẫn uất, oán hận ông y tá không có lương tâm nghề nghiệp. Tôi thề với chính mình: “Nếu qua được trận đau này, mày phải trở thành một người thầy thuốc để tự chữa cho chính mày”.
Hồi phục sau trận bệnh ấy, ngồi ngẫm lại, tôi nhận ra nếu cứ đi sau con bò kéo cái cày thì chắc chắn một điều là sẽ đoản mệnh, và kinh tế vẫn cứ không khá lên được. Thế là tôi xin phép ba mẹ, tự nộp đơn thi vào học ở trường sơ cấp Y tế, rồi tiếp theo là Trung cấp Đông y ở Đồng Nai.
Ba năm là khoảng thời gian tôi vừa đi làm kiếm tiền vừa học. Sau khi ra trường, nhờ kiến thức y học được các thầy cô truyền đạt, nhờ chịu khó miệt mài luyện tập và với quyết tâm chiến thắng bệnh tật, tôi đã tự chữa cho mình khỏi bệnh nhức đầu bằng phương pháp luyện yoga.
Trở về quê nhà, tôi bắt đầu áp dụng những gì đã học nơi nhà trường. Do từng là người bệnh ít tiền bị hắt hủi nên tôi rất thông cảm với những người ốm đau, nhất là người nghèo, người thấp kém thân phận. Mỗi khi tiếp xúc với bệnh nhân, tôi luôn dành thời gian lắng nghe họ tâm sự về gia cảnh, khai báo bệnh trong người… nhờ vậy, giữa tôi và họ có một sự gần gũi, cởi mở, tin tưởng. Theo kinh nghiệm cá nhân tôi thì đây chính là những yếu tố rất quan trọng để người thầy thuốc chữa lành bệnh tật cho bệnh nhân.
Thời gian thấm thoát trôi nhanh, đến nay đã là 28 năm kể từ ngày tôi cơm áo, sách vở đi trọ học. Cuộc sống biến thiên, đất nước cũng vươn lên vượt qua thời gian khổ, nhiều người dân trước nghèo khó thì nay đã có của ăn của để, trong số đó có tôi.
Chẳng phải vì tham gia cuộc thi “Quyết định công việc, đổi thay cuộc sống” tôi mới có dịp nhìn lại dĩ vãng, mà tự tôi rất thường xuyên “ôn cố tri tân”. Có những lúc rảnh việc, quây quần bên mấy đứa con, tôi hay kể cho chúng nghe chuyện “đời xưa” của ba. Mục đích để giáo dục cho con cái biết phấn đấu vượt trên số phận, biết tôn trọng tất cả mọi người, đặc biệt là người cùng khổ.
Ngày nay quay đầu đếm dấu chân xưa, tôi cảm thấy mình rất may mắn khi quyết định “không đi sau con bò”. Nhờ bước rẽ sáng suốt ấy mà giờ đây tôi đã thành đạt trong công việc, có một gia đình hạnh phúc, một ngôi nhà khang trang với đầy đủ tiện nghi.
SƠN KHÊ

