P
Chào các bạn,
Mình có một bài viết cần trao đổi với các bạn, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn.như sau:
Thông tư 130/2008/ TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và hướng dẫn thi hành Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có quy định các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế :
“Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (do một cá nhân làm chủ); thù lao trả cho các sáng lập viên, thành viên của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.”( Mục IV, điểm 2.5.d Thông tư 130/2008/TT-BTC)
Quy định này theo mình là chưa phù hợp với Luật số: 14/2008/QH12 -Luật Thuế Thu nhập cá nhân đã được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 06 năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 , bởi vì Khoản 2 điểm k Điều 9 Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp quy định chỉ các chi phí tiền lương như sau mới không được đưa vao chi phi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế:
“ Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân; thù lao trả cho sáng lập viên doanh nghiệp không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh;tiền lương, tiền công các khoản hạch toán khác để trả cho người lao động nhưng thực tế không chi trả hoặc không có hoá đơn , chứng từ theo quy định của pháp luật ”
Có thể dễ dàng nhận thấy, Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp không quy định nhưng Thông tư 130/2008/TT- BTC đã quy định thêm đối tượng không được đưa tiền lương vào khoản chi phí được tính trừ khi xác định thu nhập chịu thuế :
“chủ công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên - do một cá nhân làm chủ”. Việc quy định thêm đối tượng điều chỉnh như trên, theo mình vô hình trung, Bộ tài chính đã ban hành văn bản không phù hợp với quy định đã được đề cập trong Luật thuế TNDN.
Nếu cho rằng địa vị pháp lý của chủ Doanh nghiệp tư nhân và chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một cá nhân làm chủ là như nhau và vì thế nếu tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân không được đưa vào chi phí thì tiền lương, tiền công của chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một cá nhân cũng không được đưa vào chi phí để xác định thu nhập chịu thuế là hoàn toàn không đúng. Về phương diện pháp lý, Doanh nghiệp tư nhân không phải là pháp nhân và phải chịu trách nhiệm vô hạn về nghĩa vụ nợ, trong khi đó công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một pháp nhân. chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về nghĩa vụ nợ. Về phương diện thuế, doanh nghiệp tư nhân không bị điều chỉnh bởi Luật thuế thu nhập Doanh nghiệp mà lại bị điều chỉnh bởi Luật thuế Thu nhập cá nhân, trong khi đó công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên lại bị điều chỉnh bởi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Thu nhập của chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp ( 25%), còn phải nộp 5% thuế thu nhập mà cá nhân nhận được từ công ty.
Cũng cần nói thêm trước đây tại Thông tư 134/2007/TT- BTC ngày 23/11/2007 hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 thì Bộ Tài chính đã có hướng dẫn phù hợp với Luật thuế Thu nhập Doanh nghiệp hiện hành. Theo đó chỉ không được đưa vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế đối với:
“ Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ cá thể, cá nhân kinh doanh. Thù lao trả cho các sáng lập viên, thành viên của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.” ( Không quy định hạn chế đối với chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ)
Theo các bạn thì khi gặp trường hợp văn bản dưới luật lại trái với luật thì bạn áp dụng như thế nào ( Theo Luật hay theo Thông tư) ? Cụ thể trong trường hợp này phải giải quyết ra sao?
Mình có một bài viết cần trao đổi với các bạn, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn.như sau:
Thông tư 130/2008/ TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và hướng dẫn thi hành Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có quy định các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế :
“Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (do một cá nhân làm chủ); thù lao trả cho các sáng lập viên, thành viên của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.”( Mục IV, điểm 2.5.d Thông tư 130/2008/TT-BTC)
Quy định này theo mình là chưa phù hợp với Luật số: 14/2008/QH12 -Luật Thuế Thu nhập cá nhân đã được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 06 năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 , bởi vì Khoản 2 điểm k Điều 9 Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp quy định chỉ các chi phí tiền lương như sau mới không được đưa vao chi phi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế:
“ Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân; thù lao trả cho sáng lập viên doanh nghiệp không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh;tiền lương, tiền công các khoản hạch toán khác để trả cho người lao động nhưng thực tế không chi trả hoặc không có hoá đơn , chứng từ theo quy định của pháp luật ”
Có thể dễ dàng nhận thấy, Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp không quy định nhưng Thông tư 130/2008/TT- BTC đã quy định thêm đối tượng không được đưa tiền lương vào khoản chi phí được tính trừ khi xác định thu nhập chịu thuế :
“chủ công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên - do một cá nhân làm chủ”. Việc quy định thêm đối tượng điều chỉnh như trên, theo mình vô hình trung, Bộ tài chính đã ban hành văn bản không phù hợp với quy định đã được đề cập trong Luật thuế TNDN.
Nếu cho rằng địa vị pháp lý của chủ Doanh nghiệp tư nhân và chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một cá nhân làm chủ là như nhau và vì thế nếu tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân không được đưa vào chi phí thì tiền lương, tiền công của chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một cá nhân cũng không được đưa vào chi phí để xác định thu nhập chịu thuế là hoàn toàn không đúng. Về phương diện pháp lý, Doanh nghiệp tư nhân không phải là pháp nhân và phải chịu trách nhiệm vô hạn về nghĩa vụ nợ, trong khi đó công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một pháp nhân. chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về nghĩa vụ nợ. Về phương diện thuế, doanh nghiệp tư nhân không bị điều chỉnh bởi Luật thuế thu nhập Doanh nghiệp mà lại bị điều chỉnh bởi Luật thuế Thu nhập cá nhân, trong khi đó công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên lại bị điều chỉnh bởi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Thu nhập của chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp ( 25%), còn phải nộp 5% thuế thu nhập mà cá nhân nhận được từ công ty.
Cũng cần nói thêm trước đây tại Thông tư 134/2007/TT- BTC ngày 23/11/2007 hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 thì Bộ Tài chính đã có hướng dẫn phù hợp với Luật thuế Thu nhập Doanh nghiệp hiện hành. Theo đó chỉ không được đưa vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế đối với:
“ Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ cá thể, cá nhân kinh doanh. Thù lao trả cho các sáng lập viên, thành viên của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.” ( Không quy định hạn chế đối với chủ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ)
Theo các bạn thì khi gặp trường hợp văn bản dưới luật lại trái với luật thì bạn áp dụng như thế nào ( Theo Luật hay theo Thông tư) ? Cụ thể trong trường hợp này phải giải quyết ra sao?
Sửa lần cuối: