T
Hệ thống kế toán các quốc gia trên thế giới có thể được chia thành 3 mô hình như sau:
Mô hình Anh-Mỹ:
Đóng góp lớn vào mô hình này là Anh, Mỹ và Hà lan. Ở đây, việc phát triển thành phần kinh tế tư nhân, đặc biệt là các công ty cổ phần, dẫn đến việc đòi hỏi các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp như là cơ sở thông tin dành cho các nhà đầu tư và người cho vay vốn tín dụng. Hầu như tất cả các công ty có mặt trên thị trường chứng khoán đều có quan tâm đặc biệt đến việc đưa ra các thông tin khách quan về tình trạng tài chính của mình. Mô hình này ở phần lớn các nước đều dựa trên cơ sở về hạch toán giá trị ban đầu. Ngoài ra, yếu tố lạm phát được coi là không có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động liên quan đến giá cả khi thực hiện các hợp đồng. Giữa thập kỷ 70, khi ở Mỹ do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng dầu lửa đã làm tăng tỷ lệ lạm phát, Hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính đưa ra đề nghị tính đến yếu tố lạm phát trong các báo cáo tài chính, tuy nhiên đến năm 1974, khi lạm phát giảm, quy định này đã bị loại bỏ.
Mô hình Continental:
Nơi phát sinh của mô hình này là cac nước châu Âu và Nhật. ở đây các đặc điểm của kế toán dựa trên 2 yếu tố: định hướng kinh doanh cho các nguồn ngân hàng và cho việc thu thuế. Việc thu hút đầu tư được thực hiện liên quan trực tiếp đến các ngân hàng, và như vậy, các báo cáo tài chính trước tiên là danh cho các ngân hàng chứ không phải cho những người trong thị trường chứng khoán. Trong mô hình lục địa bị sự ảnh hưởng lớn của các tổ chức nhà nước. Điều này có thể được giải thích về việc ưu tiên các nhiệm vụ nhà nước về việc thu thuế.
Mô hình châu Mỹ La tinh:
Ảnh hưởng chủ yếu của việc hình thành mô hình này là yếu tố lạm phát. Vì vậy, điểm khác biệt của mô hình này là sửa đổi các giá trị trong báo cáo tài chính có tính đến mức lạm phát chung. Việc chỉnh sửa theo lạm phát là nhằm đến nhu cầu của nhà nước trong việc thực hiện phần thu của ngân sách.
Ngoài các mô hình trên, có một số nước sử dụng các hệ thống phối hợp có tính đến yếu tố địa phương. Ví dụ, có thể tính đến mô hình của các nước theo đạo Hồi.
Cần nói thêm rằng, việc chia thành các mô hình trên chỉ mang tính quy ước. Không hề có 2 quốc gia nào có hệ thống kế toán giống hệt nhau. Mặt khác, ảnh hưởng khách quan của các quá trình kinh tế thế giới dẫn đến việc cần thiết quốc tế hóa hệ thống kế toán. Trên thế giới hiện nay có các tổ chức quốc tế có ảnh hưởng đến việc quốc tế hóa nhứng chuẩn mực kế toán sau:
Các tổ chức quốc tế về kế toán
- Ủy ban về chuẩn mực kế toán quốc tế (International Accounting Standards Committee - IASC). Đây là chuẩn mực được Nga lựa chọn là mục tiêu để soạn thảo hệ thống kế toán mới trong những năm tiếp đây.
- Cơ quan liên quốc gia về chuẩn mực kế toán quốc tế trực thuộc liên hiệp quốc
- Ủy ban châu Âu. Năm 1999, Hội đồng châu Âu thông qua kế hoạch 5 năm để hoàn thiện thị trường tài chính. Trong phần liên qua đến kế toán trong hợp đồng ghi rõ vai trò của IAS như là lối ra của các công ty vào thị trường tư bản thế giới. Năm 2003, Ủy ban châu Âu đưa ra quyết định về việc đồng ý sử dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), ngoại trừ IAS 32 và IAS 39.
- Ủy ban chứng khoán Mỹ (Securities and Exchange Commission) – là cơ quan nhà nước của Mỹ. Cơ quan này có ảnh hưởng nhất định đến các phương pháp báo cáo kế toán tài chính. Năm 1996, tổ chức này đưa ra thông báo về việc ủy hộ IASC về vệc soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế.
- Hội đồng soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế (Financial Accounting Standard Board) - Là cơ quan soạn thảo các nguyên tắc kế toán của Mỹ. Các chuẩn mực này được sử dụng tại các nước theo mô hình Anh-Mỹ, và như vậy, đây là cơ quan được coi như là đối thủ cạnh tranh với IASC
Mô hình Anh-Mỹ:
Đóng góp lớn vào mô hình này là Anh, Mỹ và Hà lan. Ở đây, việc phát triển thành phần kinh tế tư nhân, đặc biệt là các công ty cổ phần, dẫn đến việc đòi hỏi các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp như là cơ sở thông tin dành cho các nhà đầu tư và người cho vay vốn tín dụng. Hầu như tất cả các công ty có mặt trên thị trường chứng khoán đều có quan tâm đặc biệt đến việc đưa ra các thông tin khách quan về tình trạng tài chính của mình. Mô hình này ở phần lớn các nước đều dựa trên cơ sở về hạch toán giá trị ban đầu. Ngoài ra, yếu tố lạm phát được coi là không có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động liên quan đến giá cả khi thực hiện các hợp đồng. Giữa thập kỷ 70, khi ở Mỹ do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng dầu lửa đã làm tăng tỷ lệ lạm phát, Hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính đưa ra đề nghị tính đến yếu tố lạm phát trong các báo cáo tài chính, tuy nhiên đến năm 1974, khi lạm phát giảm, quy định này đã bị loại bỏ.
Mô hình Continental:
Nơi phát sinh của mô hình này là cac nước châu Âu và Nhật. ở đây các đặc điểm của kế toán dựa trên 2 yếu tố: định hướng kinh doanh cho các nguồn ngân hàng và cho việc thu thuế. Việc thu hút đầu tư được thực hiện liên quan trực tiếp đến các ngân hàng, và như vậy, các báo cáo tài chính trước tiên là danh cho các ngân hàng chứ không phải cho những người trong thị trường chứng khoán. Trong mô hình lục địa bị sự ảnh hưởng lớn của các tổ chức nhà nước. Điều này có thể được giải thích về việc ưu tiên các nhiệm vụ nhà nước về việc thu thuế.
Mô hình châu Mỹ La tinh:
Ảnh hưởng chủ yếu của việc hình thành mô hình này là yếu tố lạm phát. Vì vậy, điểm khác biệt của mô hình này là sửa đổi các giá trị trong báo cáo tài chính có tính đến mức lạm phát chung. Việc chỉnh sửa theo lạm phát là nhằm đến nhu cầu của nhà nước trong việc thực hiện phần thu của ngân sách.
Ngoài các mô hình trên, có một số nước sử dụng các hệ thống phối hợp có tính đến yếu tố địa phương. Ví dụ, có thể tính đến mô hình của các nước theo đạo Hồi.
Cần nói thêm rằng, việc chia thành các mô hình trên chỉ mang tính quy ước. Không hề có 2 quốc gia nào có hệ thống kế toán giống hệt nhau. Mặt khác, ảnh hưởng khách quan của các quá trình kinh tế thế giới dẫn đến việc cần thiết quốc tế hóa hệ thống kế toán. Trên thế giới hiện nay có các tổ chức quốc tế có ảnh hưởng đến việc quốc tế hóa nhứng chuẩn mực kế toán sau:
Các tổ chức quốc tế về kế toán
- Ủy ban về chuẩn mực kế toán quốc tế (International Accounting Standards Committee - IASC). Đây là chuẩn mực được Nga lựa chọn là mục tiêu để soạn thảo hệ thống kế toán mới trong những năm tiếp đây.
- Cơ quan liên quốc gia về chuẩn mực kế toán quốc tế trực thuộc liên hiệp quốc
- Ủy ban châu Âu. Năm 1999, Hội đồng châu Âu thông qua kế hoạch 5 năm để hoàn thiện thị trường tài chính. Trong phần liên qua đến kế toán trong hợp đồng ghi rõ vai trò của IAS như là lối ra của các công ty vào thị trường tư bản thế giới. Năm 2003, Ủy ban châu Âu đưa ra quyết định về việc đồng ý sử dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), ngoại trừ IAS 32 và IAS 39.
- Ủy ban chứng khoán Mỹ (Securities and Exchange Commission) – là cơ quan nhà nước của Mỹ. Cơ quan này có ảnh hưởng nhất định đến các phương pháp báo cáo kế toán tài chính. Năm 1996, tổ chức này đưa ra thông báo về việc ủy hộ IASC về vệc soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế.
- Hội đồng soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế (Financial Accounting Standard Board) - Là cơ quan soạn thảo các nguyên tắc kế toán của Mỹ. Các chuẩn mực này được sử dụng tại các nước theo mô hình Anh-Mỹ, và như vậy, đây là cơ quan được coi như là đối thủ cạnh tranh với IASC