T
Xin được đăng một tư liệu hướng dẫn lý thuyết chung để tạo dựng một phần mềm kế toán.
Đối với người lập trình, mức độ phức tạp khi đặt vấn đề và giải quyết bài toán tự động hoá công tác kế toán thường tỷ lệ thuận với việc thiếu kiến thức sâu rộng về chuyên ngành kế toán. Kết quả là các giải pháp đưa ra có thể không được hợp lý, hoặc thậm chí, không chính xác. Vì vậy, cần thiết có một chút khái niệm và kiến thức sơ bộ về các thuật ngữ kế toán. Trong bài viết này, tôi không đề cập sâu đến kế toán như một giáo trình kinh tế, mà chỉ giới thiệu sơ qua về các thành phần chính cần thiết để có thể hình dung tổng thể về phần mềm kế toán. Những vấn đề kế toán chuyên sâu có thể xem trong các tài liệu chuyên ngành. Trước tiên, chúng ta cùng xem xét các dạng kế toán.
Các dạng kế toán
Có thể tiến hành nhiều cuộc tranh luận về việc phân loại các dạng kế toán, tuy nhiên, đó không phải là mục đích chính của chúng ta. Ở đây, chung ta cần hiệu các đặc thù chính của các dạng kế toán, trên cơ sở đó để lựa chọn cơ cấu thích hợp để tự động hoá công tác kế toán sau này. Hãy cùng xem xét một số dạng kế toán sau:
Kế toán công việc: được hạn chế trong giới hạn của một công việc cụ thể, dùng cho công tác quản lý các nhiệm vụ hiện thời của doanh nghiệp. Ví dụ: kế toán thời gian làm việc của nhân viên, kế toán số lượng nguyên vật liệu còn tồn trong kho. Khi tự động hoá kế toán công việc, chúng ta chỉ dừng lại ở mức độ quản lý các nguồn lực sẵn có (tài chính, nhân lực...) trong một mảng công việc. Đối với kế toán công việc, cần tập trung chú ý vào các hoạt động chính của công ty. Đây là mảng đòi hỏi nhiều công sức lao động, đồng thời cần chú tong trong việc tự động hoá nó. Ví dụ, đối với doanh nghiệp thương mại: kế toán hàng trong kho, kế toná bán hàng, kế toán mua hàng. Đối với doanh nghiệp sản xuất: kế toán giá thành, kế toán nguyên vật liệu...
Kế toán tổng hợp: nghiên cứu các hiện tượng có tính chất đại trà. Dạng kế toán này sử dụng dữ liệu của kế toán doanh nghiệp và kế toán công việc.
Kế toán doanh nghiệp: là quá trình phản ánh một cách liên tục, không bị ngắt quãng, có liên quan lẫn nhau của toàn bộ các hoạt động trong doanh nghiệp. Việc này được tiến hành trên cơ sở các chứng từ mà trong đó có thể hiện các giá trị bằng tiền liên quan đến các đối tượng kế toán.
Trong một số các tài liệu có chia kế toán doanh nghiệp thành các dạng nhỏ hơn như: kế toán quản trị, kế toán tài chính và kế toán thuế.
Kế toán quản trị: dùng để tập trung và hình thành các thông tin về hoạt động của doanh nghiệp, dùng cho người sử dụng nội bộ (chủ sở hữu, người quản lý, nhân viên). Công tác kế toán được tiến hành độc lập và không hề bị ràng buộc bởi các quy trình bắt buộc, ngoại trừ ý muốn của tổng giám đốc, giám đốc tài chính, giám đốc sản xuất, người phụ trách bộ phận...). Như vậy, không có nghĩa rằng không thể sử dụng các chuẩn mực khi soạn thảo các chính sách kế toán nội bộ doanh nghiệp. Hoàn toàn có thể sử dụng các chuẩn mực kế toán quốc gia hoặc quốc tế.
Kế toán tài chính: hướng tới việc nhập các thông tin cần thiết để lập các báo báo tổng hợp, dùng cho người sử dụng ngoài doanh nghiệp (người đầu tư, nhà nước, các ban ngành kiểm tra). Công tác kế toán dạng này được tiến hành cần phù hợp với các chuẩn mức quốc giá (ví dụ VAS) hoặc quốc tế (ví dụ IAS, US GAAP...).
Kế toán thuế: cũng giống như kế toán tài chính (dùng cho người sử dụng bên ngoài), đối tượng sử dụng là các cơ quan thuế, nhưng công việc này được tiến hành phù hợp với pháp luật về thuế.Vai trò của kế toán thuế trong bảng phân loại này có thể gây ra nhiều tranh cãi. Nhiệm vụ chính của kế toán thuế là dùng để xác định cơ sở tính thuế. Một trong những loại thuế chính là thuế lợi nhuận doanh nghiệp, có thể tính trên cơ sở lợi tức của kế toán quản trị, nhưng được chỉnh sửa theo quy định của pháp luật thuế. Có thể coi kế toán thuế là một trong các dạng độc lập của kế toán doanh nghiệp, ngang hàng với kế toán tài chính.
Kế toán tài chính và kế toán thuế có thể hợp lại với nhau thành kế toán theo quy định của nhà nước.
Trong bài viết này, mục đích chính mà tôi muốn đưa ra là tiến hành tự động hoá công tác kế toán quản trị, vì nó được tiến hành trên nguyên tác ghi chép và thâu tóm toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với người lập trình, mức độ phức tạp khi đặt vấn đề và giải quyết bài toán tự động hoá công tác kế toán thường tỷ lệ thuận với việc thiếu kiến thức sâu rộng về chuyên ngành kế toán. Kết quả là các giải pháp đưa ra có thể không được hợp lý, hoặc thậm chí, không chính xác. Vì vậy, cần thiết có một chút khái niệm và kiến thức sơ bộ về các thuật ngữ kế toán. Trong bài viết này, tôi không đề cập sâu đến kế toán như một giáo trình kinh tế, mà chỉ giới thiệu sơ qua về các thành phần chính cần thiết để có thể hình dung tổng thể về phần mềm kế toán. Những vấn đề kế toán chuyên sâu có thể xem trong các tài liệu chuyên ngành. Trước tiên, chúng ta cùng xem xét các dạng kế toán.
Các dạng kế toán
Có thể tiến hành nhiều cuộc tranh luận về việc phân loại các dạng kế toán, tuy nhiên, đó không phải là mục đích chính của chúng ta. Ở đây, chung ta cần hiệu các đặc thù chính của các dạng kế toán, trên cơ sở đó để lựa chọn cơ cấu thích hợp để tự động hoá công tác kế toán sau này. Hãy cùng xem xét một số dạng kế toán sau:
Kế toán công việc: được hạn chế trong giới hạn của một công việc cụ thể, dùng cho công tác quản lý các nhiệm vụ hiện thời của doanh nghiệp. Ví dụ: kế toán thời gian làm việc của nhân viên, kế toán số lượng nguyên vật liệu còn tồn trong kho. Khi tự động hoá kế toán công việc, chúng ta chỉ dừng lại ở mức độ quản lý các nguồn lực sẵn có (tài chính, nhân lực...) trong một mảng công việc. Đối với kế toán công việc, cần tập trung chú ý vào các hoạt động chính của công ty. Đây là mảng đòi hỏi nhiều công sức lao động, đồng thời cần chú tong trong việc tự động hoá nó. Ví dụ, đối với doanh nghiệp thương mại: kế toán hàng trong kho, kế toná bán hàng, kế toán mua hàng. Đối với doanh nghiệp sản xuất: kế toán giá thành, kế toán nguyên vật liệu...
Kế toán tổng hợp: nghiên cứu các hiện tượng có tính chất đại trà. Dạng kế toán này sử dụng dữ liệu của kế toán doanh nghiệp và kế toán công việc.
Kế toán doanh nghiệp: là quá trình phản ánh một cách liên tục, không bị ngắt quãng, có liên quan lẫn nhau của toàn bộ các hoạt động trong doanh nghiệp. Việc này được tiến hành trên cơ sở các chứng từ mà trong đó có thể hiện các giá trị bằng tiền liên quan đến các đối tượng kế toán.
Trong một số các tài liệu có chia kế toán doanh nghiệp thành các dạng nhỏ hơn như: kế toán quản trị, kế toán tài chính và kế toán thuế.
Kế toán quản trị: dùng để tập trung và hình thành các thông tin về hoạt động của doanh nghiệp, dùng cho người sử dụng nội bộ (chủ sở hữu, người quản lý, nhân viên). Công tác kế toán được tiến hành độc lập và không hề bị ràng buộc bởi các quy trình bắt buộc, ngoại trừ ý muốn của tổng giám đốc, giám đốc tài chính, giám đốc sản xuất, người phụ trách bộ phận...). Như vậy, không có nghĩa rằng không thể sử dụng các chuẩn mực khi soạn thảo các chính sách kế toán nội bộ doanh nghiệp. Hoàn toàn có thể sử dụng các chuẩn mực kế toán quốc gia hoặc quốc tế.
Kế toán tài chính: hướng tới việc nhập các thông tin cần thiết để lập các báo báo tổng hợp, dùng cho người sử dụng ngoài doanh nghiệp (người đầu tư, nhà nước, các ban ngành kiểm tra). Công tác kế toán dạng này được tiến hành cần phù hợp với các chuẩn mức quốc giá (ví dụ VAS) hoặc quốc tế (ví dụ IAS, US GAAP...).
Kế toán thuế: cũng giống như kế toán tài chính (dùng cho người sử dụng bên ngoài), đối tượng sử dụng là các cơ quan thuế, nhưng công việc này được tiến hành phù hợp với pháp luật về thuế.Vai trò của kế toán thuế trong bảng phân loại này có thể gây ra nhiều tranh cãi. Nhiệm vụ chính của kế toán thuế là dùng để xác định cơ sở tính thuế. Một trong những loại thuế chính là thuế lợi nhuận doanh nghiệp, có thể tính trên cơ sở lợi tức của kế toán quản trị, nhưng được chỉnh sửa theo quy định của pháp luật thuế. Có thể coi kế toán thuế là một trong các dạng độc lập của kế toán doanh nghiệp, ngang hàng với kế toán tài chính.
Kế toán tài chính và kế toán thuế có thể hợp lại với nhau thành kế toán theo quy định của nhà nước.
Trong bài viết này, mục đích chính mà tôi muốn đưa ra là tiến hành tự động hoá công tác kế toán quản trị, vì nó được tiến hành trên nguyên tác ghi chép và thâu tóm toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp.
Sửa lần cuối: