
Quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam - Bộ LĐTBXH hướng dẫn vấn đề này tại Thông tư số 24/2005/TT-BLĐTBXH ngày 26/9/2005, sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư số 04/2004/TT-BLĐTBXH_10/3/2004 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 105/2003/NĐ-CP_17/9/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Theo Thông tư, đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực đặc thù sử dụng ít lao động hoặc ở giai đoạn đầu mới đầu tư, sản xuất chưa ổn định mà có nhu cầu tuyển lao động nước ngoài vào vị trí công việc mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được vượt quá tỷ lệ 3% thì trình Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính xem xét, chấp thuận bằng văn bản trên cơ sở yêu cầu thực tế của từng doanh nghiệp;
Đối với trường hợp người nước ngoài có nhiều kinh nghiệm và thâm niên trong nghề nghiệp, trong điều hành sản xuất, kinh doanh hoặc những công việc quản lý mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được, là người đã có ít nhất 05 năm kinh nghiệm về công việc đó, có khả năng đảm nhiệm công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động phải có xác nhận bằng văn bản của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài.
Chính sách thuế TNDN - Luật khuyến khích đầu tư trong nước qui định, trong cùng một thời gian, cơ sở sản xuất, kinh doanh vừa được hưởng ưu đãi về thuế theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước, vừa được hưởng ưu đãi về thuế theo các qui định khác thì cơ sở chỉ được hưởng ưu đãi về thuế theo một trong các qui định trên do cơ sở tự lựa chọn và phải đăng ký việc áp dụng chế độ ưu đãi thuế với cơ quan thuế trực tiếp quản lý.
Trong cùng một thời gian, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực hiện nhiều dự án đầu tư được hưởng ưu đãi thuế, thì cơ sở phải thực hiện theo dõi hạch toán riêng từng phần thu nhập chịu thuế của từng dự án đầu tư để áp dụng các mức ưu đãi về thuế TNDN. Nếu cơ sở không hạch toán riêng được thì sẽ chỉ được áp dụng mức ưu đãi về thuế TNDN thấp nhất mà cơ sở đang được hưởng đối với phần thu nhập chịu thuế không hạch toán riêng được. (Theo Công văn số 3364/TCT-DNNN ngày 29/9/2005).
Thuế uỷ thác xuất khẩu hàng hoá – Trong trường hợp một doanh nghiệp nhận uỷ thác xuất khẩu hàng hoá, theo qui định của hợp đồng uỷ thác xuất khẩu thì doanh nghiệp chịu trách nhiệm trả hộ bên uỷ thác cước phí vận tải biển – Đây là khoản chi hộ bên uỷ thác. Hãng tàu đã viết hoá đơn vận tải biển giao cho doanh nghiệp, thì doanh nghiệp phải xuất hoá đơn GTGT giao cho bên uỷ thác. Trên hoá đơn ghi số tiền thanh toán đúng bằng tiền cước vận tải biển trả cho hãng tàu; dòng thuế suất, tiền thuế không ghi và gạch bỏ.
Ngoài ra, khi nhận tiền hoa hồng uỷ thác xuất khẩu, doanh nghiệp cũng phải xuất hoá đơn GTGT giao cho bên uỷ thác, mức thuế suất thuế GTGT là 10% đối với khoản hoa hồng nhận được. (Theo Công văn số 3323/TCT-DNK ngày 27/9/2005).
Doanh thu tính thuế dịch vụ lữ hành - Đối với dịch vụ du lịch theo hình thức lữ hành, hợp đồng ký với khách hàng theo giá trọn gói, thì giá trọn gói được xác định là giá đã có thuế để tính thuế GTGT và doanh thu của cơ sở kinh doanh.
Trường hợp, giá trọn gói bao gồm các khoản không chịu thuế GTGT như chi vé máy bay vận chuyển khách du lịch từ nước ngoài vào Việt Nam, từ Việt Nam đi nước ngoài, các chi phí ăn, nghỉ, tham quan ở nước ngoài có chứng từ hợp pháp, thì các khoản chi này được tính giảm trừ trong giá tính thuế GTGT. (Theo Công văn số 3318/TCT-DNNN ngày 27/9/2005).
Xác định nhầm lẫn về thuế - Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, hạch toán đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên sổ sách kế toán, đã lập quyết toán thu thuế TNDN, nhưng do xác định nhầm doanh thu tính thuế, chi phí được trừ khi tính thuế TNDN nên kết quả tính ra số thuế TNDN phải nộp bị sai, sau đó doanh nghiệp phát hiện và tự kê khai, xác định lại số thuế phải nộp thêm hoặc điều chỉnh giảm số phải nộp theo đúng thực tế thì hành vi trên được xác định là nhầm lẫn về thuế. (Theo Công văn số 3291/TCT-PCCS ngày 22/9/2005).
Tự kê khai, tự nộp thuế tài nguyên - Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 82/2005/TT-BTC ngày 22/9/2005, thí điểm cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế tài nguyên theo quyết định số 161/2005/QĐ-TTg_30/6/2005.
Cơ sở kinh doanh thực hiện thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế tài nguyên tiếp tục sử dụng mã số thuế đã được cơ quan thuế cấp, không phải đăng ký lại với cơ quan thuế.
Hàng tháng, cơ sở kinh doanh phải kê khai đầy đủ các chỉ tiêu trên tờ khai về mã số thuế, tên, địa chỉ, địa điểm khai thác tài nguyên… Thời hạn nộp tờ khai chậm nhất là ngày 25 của tháng tiếp theo. Ngày nộp tờ khai được xác định là ngày bưu điện đóng dấu gửi đi hoặc ngày cơ sở kinh doanh nộp tờ khai trực tiếp cho cơ quan thuế.
Sau khi tự quyết toán thuế tài nguyên, hàng tháng, cơ sở kinh doanh nộp tiền thuế tài nguyên vào NSNN theo số thuế đã kê khai. Thời hạn nộp chậm nhất không quá ngày 25 của tháng tiếp sau. Trường hợp có phát sinh số thuế tài nguyên phải nộp theo Tờ khai tự quyết toán thuế tài nguyên thì cơ sở kinh doanh nộp số thuế tài nguyên còn thiếu vào NSNN chậm nhất không quá 60 ngày, kể từ khi kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính.
Tự kê khai, tự nộp thuế TTĐB - Bộ Tài chính cũng hướng dẫn thí điểm cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế TTĐB theo Quyết định số 161/2005/QĐ-TTg ngày 30/6/2005 tại Thông tư số 82/2005/TT-BTC ngày 21/9/2005.
Cơ sở kinh doanh thực hiện thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp thuế TTĐB ở khâu sản xuất trong nước tiếp tục sử dụng mã số thuế đã được cơ quan thuế cấp, không phải đăng ký lại với cơ quan thuế.
Thuế TTĐB được tính và kê khai hàng tháng. Cơ sở kinh doanh thực hiện thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế phải kê khai thuế TTĐB hàng tháng đầy đủ, chính xác theo mẫu của Bộ Tài chính. Thời hạn nộp tờ khai thuế TTĐB chậm nhất không quá ngày 25 của tháng tiếp theo. Và cơ sở kinh doanh không phải gửi các bảng kê về hàng hoá, dịch vụ bán ra; hàng hoá xuất khẩu; rượu chai, bia chai bán ra; thuế TTĐB được khấu trừ. Trường hợp cơ sở kinh doanh không kê khai đầy đủ hoặc kê khai không theo mẫu qui định; cơ sở kinh doanh chưa xác nhận tính pháp lý của việc kê khai – ký tên, đóng dấu thì coi như chưa nộp tờ khai cho cơ quan thuế.
Tương tự như việc nộp thuế tài nguyên, thuế TTĐB cũng phải nộp hàng tháng vào NSNN theo số thuế đã kê khai. Thời hạn nộp thuế TTĐB chậm nhất không quá ngày 25 của tháng tiếp sau tháng phát sinh thuế phải nộp.
Đối với trường hợp người nước ngoài có nhiều kinh nghiệm và thâm niên trong nghề nghiệp, trong điều hành sản xuất, kinh doanh hoặc những công việc quản lý mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được, là người đã có ít nhất 05 năm kinh nghiệm về công việc đó, có khả năng đảm nhiệm công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động phải có xác nhận bằng văn bản của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài.
Chính sách thuế TNDN - Luật khuyến khích đầu tư trong nước qui định, trong cùng một thời gian, cơ sở sản xuất, kinh doanh vừa được hưởng ưu đãi về thuế theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước, vừa được hưởng ưu đãi về thuế theo các qui định khác thì cơ sở chỉ được hưởng ưu đãi về thuế theo một trong các qui định trên do cơ sở tự lựa chọn và phải đăng ký việc áp dụng chế độ ưu đãi thuế với cơ quan thuế trực tiếp quản lý.
Trong cùng một thời gian, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực hiện nhiều dự án đầu tư được hưởng ưu đãi thuế, thì cơ sở phải thực hiện theo dõi hạch toán riêng từng phần thu nhập chịu thuế của từng dự án đầu tư để áp dụng các mức ưu đãi về thuế TNDN. Nếu cơ sở không hạch toán riêng được thì sẽ chỉ được áp dụng mức ưu đãi về thuế TNDN thấp nhất mà cơ sở đang được hưởng đối với phần thu nhập chịu thuế không hạch toán riêng được. (Theo Công văn số 3364/TCT-DNNN ngày 29/9/2005).
Thuế uỷ thác xuất khẩu hàng hoá – Trong trường hợp một doanh nghiệp nhận uỷ thác xuất khẩu hàng hoá, theo qui định của hợp đồng uỷ thác xuất khẩu thì doanh nghiệp chịu trách nhiệm trả hộ bên uỷ thác cước phí vận tải biển – Đây là khoản chi hộ bên uỷ thác. Hãng tàu đã viết hoá đơn vận tải biển giao cho doanh nghiệp, thì doanh nghiệp phải xuất hoá đơn GTGT giao cho bên uỷ thác. Trên hoá đơn ghi số tiền thanh toán đúng bằng tiền cước vận tải biển trả cho hãng tàu; dòng thuế suất, tiền thuế không ghi và gạch bỏ.
Ngoài ra, khi nhận tiền hoa hồng uỷ thác xuất khẩu, doanh nghiệp cũng phải xuất hoá đơn GTGT giao cho bên uỷ thác, mức thuế suất thuế GTGT là 10% đối với khoản hoa hồng nhận được. (Theo Công văn số 3323/TCT-DNK ngày 27/9/2005).
Doanh thu tính thuế dịch vụ lữ hành - Đối với dịch vụ du lịch theo hình thức lữ hành, hợp đồng ký với khách hàng theo giá trọn gói, thì giá trọn gói được xác định là giá đã có thuế để tính thuế GTGT và doanh thu của cơ sở kinh doanh.
Trường hợp, giá trọn gói bao gồm các khoản không chịu thuế GTGT như chi vé máy bay vận chuyển khách du lịch từ nước ngoài vào Việt Nam, từ Việt Nam đi nước ngoài, các chi phí ăn, nghỉ, tham quan ở nước ngoài có chứng từ hợp pháp, thì các khoản chi này được tính giảm trừ trong giá tính thuế GTGT. (Theo Công văn số 3318/TCT-DNNN ngày 27/9/2005).
Xác định nhầm lẫn về thuế - Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, hạch toán đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên sổ sách kế toán, đã lập quyết toán thu thuế TNDN, nhưng do xác định nhầm doanh thu tính thuế, chi phí được trừ khi tính thuế TNDN nên kết quả tính ra số thuế TNDN phải nộp bị sai, sau đó doanh nghiệp phát hiện và tự kê khai, xác định lại số thuế phải nộp thêm hoặc điều chỉnh giảm số phải nộp theo đúng thực tế thì hành vi trên được xác định là nhầm lẫn về thuế. (Theo Công văn số 3291/TCT-PCCS ngày 22/9/2005).
Tự kê khai, tự nộp thuế tài nguyên - Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 82/2005/TT-BTC ngày 22/9/2005, thí điểm cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế tài nguyên theo quyết định số 161/2005/QĐ-TTg_30/6/2005.
Cơ sở kinh doanh thực hiện thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế tài nguyên tiếp tục sử dụng mã số thuế đã được cơ quan thuế cấp, không phải đăng ký lại với cơ quan thuế.
Hàng tháng, cơ sở kinh doanh phải kê khai đầy đủ các chỉ tiêu trên tờ khai về mã số thuế, tên, địa chỉ, địa điểm khai thác tài nguyên… Thời hạn nộp tờ khai chậm nhất là ngày 25 của tháng tiếp theo. Ngày nộp tờ khai được xác định là ngày bưu điện đóng dấu gửi đi hoặc ngày cơ sở kinh doanh nộp tờ khai trực tiếp cho cơ quan thuế.
Sau khi tự quyết toán thuế tài nguyên, hàng tháng, cơ sở kinh doanh nộp tiền thuế tài nguyên vào NSNN theo số thuế đã kê khai. Thời hạn nộp chậm nhất không quá ngày 25 của tháng tiếp sau. Trường hợp có phát sinh số thuế tài nguyên phải nộp theo Tờ khai tự quyết toán thuế tài nguyên thì cơ sở kinh doanh nộp số thuế tài nguyên còn thiếu vào NSNN chậm nhất không quá 60 ngày, kể từ khi kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính.
Tự kê khai, tự nộp thuế TTĐB - Bộ Tài chính cũng hướng dẫn thí điểm cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế TTĐB theo Quyết định số 161/2005/QĐ-TTg ngày 30/6/2005 tại Thông tư số 82/2005/TT-BTC ngày 21/9/2005.
Cơ sở kinh doanh thực hiện thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp thuế TTĐB ở khâu sản xuất trong nước tiếp tục sử dụng mã số thuế đã được cơ quan thuế cấp, không phải đăng ký lại với cơ quan thuế.
Thuế TTĐB được tính và kê khai hàng tháng. Cơ sở kinh doanh thực hiện thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế phải kê khai thuế TTĐB hàng tháng đầy đủ, chính xác theo mẫu của Bộ Tài chính. Thời hạn nộp tờ khai thuế TTĐB chậm nhất không quá ngày 25 của tháng tiếp theo. Và cơ sở kinh doanh không phải gửi các bảng kê về hàng hoá, dịch vụ bán ra; hàng hoá xuất khẩu; rượu chai, bia chai bán ra; thuế TTĐB được khấu trừ. Trường hợp cơ sở kinh doanh không kê khai đầy đủ hoặc kê khai không theo mẫu qui định; cơ sở kinh doanh chưa xác nhận tính pháp lý của việc kê khai – ký tên, đóng dấu thì coi như chưa nộp tờ khai cho cơ quan thuế.
Tương tự như việc nộp thuế tài nguyên, thuế TTĐB cũng phải nộp hàng tháng vào NSNN theo số thuế đã kê khai. Thời hạn nộp thuế TTĐB chậm nhất không quá ngày 25 của tháng tiếp sau tháng phát sinh thuế phải nộp.