Bàn luận thêm về tạm ứng
Ở đơn vị mình có trường hợp thế này: đầu tháng 1/11/xx khi một CBCNV tạm ứng một số tiền chẳng hạn là 4.000.000đ
Định khoản sẽ ghi như sau: Nợ TK 141: 4.000.000
Có TK 111: 4.000.000.
Sau khi đi công tác về, người đó tập hợp các chứng từ thanh toán để hoàn ứng. Xảy ra hai trường hợp như sau:
1) Tại thời điểm ngày 30/11/xx, nếu thanh toán không vượt quá số tiền tạm ứng, sẽ định khoản như sau:
Nợ TK 154, 627,641,642...:số chi phí được phép thanh toán
Có TK 141: chi phí được phép thanh toán
Phần còn lại vẫn treo trên tài khoản tạm ứng, hoặc làm một phiếu thu tiền mặt số tiền còn lại.
2) Nếu thanh toán vượt quá số tiền tạm ứng, giả sử thanh toán được số tiền 4.500.000đ, định khoản như sau:
Nợ TK154,627,641,642:4.090.909
Nợ TK 1331 : 409.091
Có TK 141 :4.500.000
Sau đó, kế toán làm ra một phiếu chi sau:
Nợ TK 141 :500.000
Có TK 111 :500.000
Như vậy trên sổ cái tài khoản tạm ứng tại thời điểm ngày 30/11/xx số dư tài khoản 141 sẽ nằm ở bên có số tiền 500.000đ. Mặc dù sau đó có phiếu chi tiền mặt ra để tất toán số dư trên TK 141.
Vậy cho mình hỏi làm như thế có chính xác không?
Còn trường hợp như sau: kế toán thanh toán sẽ làm một phiếu thu tiền mặt thu tất cả số tiền CBCNV đó đã tạm ứng. Sau đó lại ra một phiếu chi để thanh toán số chi phí cán bộ này đã bỏ ra. Nếu làm như vậy theo các bạn có chính xác không?
Theo như mình thấy, nếu làm theo cách trên thì sẽ làm xuất hiện luồng tiền vào và luồng tiền ra trên tài khoản TM, làm đội số phát sinh trên TK tiền mặt một số không có thực, do vậy sẽ ảnh hưởng đến số liệu lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ.