[QUOTE=
7. Chi trả lãi tiền vay vốn sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, các tổ chức kinh tế theo lãi suất thực tế; chi trả lãi tiền vay của các đối tượng khác theo lãi suất thực tế, nhưng tối đa không quá 1,2 lần mức lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại tại thời điểm vay.
Nghị định hay thông tư đều như nhau thôi, bây giờ vấn đề là chúng ta cần hiểu là "lãi suất
thực tế" (trong thông tư thì thêm "lãi suất
thực tế căn cứ theo hợp đồng vay") là như thế nào?
Tôi có 1 VD để cùng phân tích nhé!
DN có 1 hợp đồng vay 100 triệu với các điều khoản sau:
1. Lãi suất trong hạn 1%.
2. Lãi suất chậm gốc (quá hạn) là 1.5 lần lãi suất trong hạn.
3. Lãi suất chậm lãi là 1.3 lần số tiền lãi chậm x số ngày chậm trả lãi.
- Trường hợp DN chậm trả lãi thì số tiền phải nộp là:
= 100tr x (1% + 0.3%) = 1.300.000 Vậy số tiền thực tế là: 1.300.000 nhưng số lãi thực tế ở đây không phải là 1,3%
mà là 1%, Vì tỷ lệ 0.3% không được coi là lãi suất mà chỉ là cơ sở để xác định số tiền 300.000 mà DN phải bồi thường cho NH vì sự chậm trễ của mình.
- Trường hợp DN chậm trả gốc:
+ Trường hợp DN chưa được gia hạn thì số tiền lãi phải nộp là: 100tr x (1%+0.5%) = 1.500.000. Và con số 1% là để tính lãi DN phải nộp, số 0.5% là để xác định mức phạt mà DN phải trả.
+ Trường hợp DN được gia hạn: thì số lãi DN nộp hàng tháng (1%) được mặc dù vẫn bị gọi là lãi quá hạn (vì HĐ đang ở trạng thái quá hạn) nhưng được tính chi phí hợp lý.
Nếu sau này DN lại tiếp tục chậm lãi or chậm gốc khi hết th.gian gia hạn thì lại xuất hiện lãi phạt, và đừng có hi vọng số lãi phạt đó được tính chi phí hợp lý.
Chúc vui vẻ![/QUOTE]
Bác nhầm ở 1 điểm:
- Lãi suất bị không chế 1,2 lần là lãi suất vay đối tượng khác (chủ yếu là lãi vay cá nhân)
- Còn lãi suất ngân hàng hay lãi suất vay các tổ chức kinh tế thì không bị không chế
Bác đọc kỹ lại cái thông tư và nghị định đi