Đương nhiên tôi chỉ chứng minh hành vi vượt định mức của bạn như sau: Nếu công trình đó thực tế nhu cầu chỉ là 10 tấn, kế toán đã phân bổ lượng thép là 100 tấn thép, cơ quan thuế không truy thu hết tất cả hóa đơn đó ( Giả sử hóa đơn đó là 200 tấn) mà truy thu phần vượt mức khi kế toán đã phân bổ xác định KQKD thừa là 90 tấn. Ỏ đây cơ quan thuế chứng minh cho những ai phân bổ định mức bất hợp lý là nhu cầu thực của công trình có 10 tấn sao anh lại phân bổ 100 tấn, còn 90 tấn anh dùng làm gì, thất thoát ư? Cái lý của Doanh nghiệp rằng vẫn chỉ giải thích được là có mua thép, có dùng cho công trình đó thôi chứ chứng minh bằng cách nào.
Chị Thắm nói: "Bạn lưu ý điểm khác nhau ở điều bạn nói và việc áp dụng văn bản là ở chổ bôi đậm. Rõ ràng bạn có hóa đơn hợp pháp về hình thức nhưng nội dung không hợp pháp thì không thực tế phát sinh việc mua bán vật tư để bên bạn dùng cho sxkd. Đâu phải chỉ có cái hóa đơn thôi là được đâu. Và chính bạn cũng đã nêu " cơ sở để truy thu là phân bổ thừ, không hợp lý". Đã nói là không hợp lý, không liên quan đến sxkd thì không được khấu trừ TGTGT là đúng rồi. Tôi nghỉ không có cán bộ thuế nào dại dột truy thu thuế GTGT của các hóa đơn mà DN chứng minh được nó liên quan đến sxkd, tức là có các chứng từ khác chứng minh cho việc sử dụng vật tư đầu vào và kết quả ở đầu ra." Thì tôi hỏi chị khi trường hợp này phân bổ vượt một lượng lớn sẽ chứng minh được như thế nào? Doanh nghiệp cũng chỉ chứng minh là có mua thép, có mang đến công trình để thi công. Tôi đã bị truy thu số lượng vượt định mức, mà cơ quan thuế cho rằng đây là hành vi gian lận trốn thuế.
Tôi xin trích các căn cứ xác định hành vi này như sau:
1- Về xác định hành vi trốn thuế:
Tại điểm 1, Mục IV, Phần B Thông tư số 41/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính đã hướng dẫn cách xác định hành vi trốn thuế đối với một số trường hợp vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, nay hướng dẫn cụ thể thêm như sau:
1.1- Tổ chức, cá nhân kinh doanh trong quá trình kê khai, quyết toán thuế có hành vi kê khai, xác định không đúng căn cứ tính thuế theo quy định của từng sắc thuế (điểm 1g) và các hành vi vi phạm khác ( điểm 1i) làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn hoặc được miễn, giảm, nhưng các số liệu về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế đã được phản ánh đầy đủ trên sổ sách kế toán và trên Báo cáo tài chính đơn vị gửi cơ quan thuế theo đúng quy định thì chưa đủ căn cứ để kết luận là hành vi trốn thuế. Trường hợp này, cơ quan thuế truy thủ đủ số thuế còn thiếu theo quy định và tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử phạt trong lĩnh vực kế toán theo quy định tại Nghị định số 185/2004/NĐ-CP ngày 04/11/2004 của Chính phủ hoặc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoá đơn, chứng từ theo quy định tại Nghị định số 89/2002/NĐ-CP ngày 07/11/2002 của Chính phủ.
Đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm nêu trên, nếu trong thời gian chưa chấp hành xong việc truy thu thuế và quyết định xử phạt trong lĩnh vực kế toán, hoá đơn, chứng từ hoặc chưa qua thời hạn một năm, kể từ ngày chấp hành xong việc truy thu thuế, quyết định xử phạt trong lĩnh vực kế toán, hoá đơn, chứng từ mà tái phạm các hành vi vi phạm tương tự đã xảy ra thì phải áp dụng hình thức, mức xử phạt về hành vi trốn thuế theo hướng dẫn tại điểm 1g và điểm 1i, Mục IV Phần B Thông tư số 41/2004/TT-BTC nêu trên.
Một số trường hợp sau đây nếu vi phạm lần đầu chưa xác định là hành vi trốn thuế:
- Hạch toán, kê khai thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào đã quá thời hạn quy định được khấu trừ thuế; phân bổ thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào không sử dụng sản xuất hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT để khấu trừ thuế.
- Hạch toán, kê khai không đúng doanh thu tiêu thụ hàng hoá, cung ứng dịch vụ thực tế phát sinh làm sai lệch doanh thu tính thuế nên phải điều chỉnh lại khi kiểm tra quyết toán thuế.
- Hạch toán một số khoản chi phí sản xuất kinh doanh theo đúng chế độ kế toán nhưng tính vào chi phí hợp lý để xác định thu nhập chịu thuế không đúng quy định đối với một số khoản chi phí như sau: Trích trước chi phí sửa chữa tài sản cố định; trích các khoản dự phòng; trích khấu hao tài sản cố định; tiền lương, tiền công không đúng theo chế độ hợp đồng lao động; chi phí xây dựng cơ bản thuộc diện phải hình thành tài sản cố định để trích khấu hao theo chế độ quy định; các khoản chi không liên quan đến doanh thu, thu nhập chịu thuế như: chi ủng hộ đoàn thể, chi từ thiện.
- Hạch toán các khoản chi phí có hoá đơn, chứng từ hợp lệ nhưng vượt mức khống chế theo quy định được tính vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN; chi trả lãi tiền vay vốn sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ vượt mức quy định; tiền ăn giữa ca, tiền ăn định lượng vượt mức quy định; chi bảo hộ lao động hoặc chi trang phục vượt mức quy định; phân bổ các khoản chi phí vượt mức quy định; chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, tiếp tân ... vượt mức khống chế.
1.2- Tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi ghi sổ kế toán không đúng quy định của chế độ kế toán làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn hoặc làm tăng số thuế được miễn, giảm (điểm 1a), nhưng sau khi cơ quan thuế nhắc nhở, tổ chức, cá nhân tự điều chỉnh, xác định lại số thuế phải nộp, số thuế được khấu trừ, số thuế được miễn, giảm theo đúng quy định của pháp luật về thuế thì không xác định là hành vi trốn thuế. Trường hợp này, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt trong lĩnh vực kế toán theo quy định tại Nghị định số 185/2004/NĐ-CP nêu trên.
1.3- Tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ lập hoá đơn ghi giá trị thấp hơn từ 20% trở lên so với giá bán trung bình của hàng hoá, dịch vụ cùng loại trên thị trường địa phương nơi bán hàng (điểm 1đ) nhưng việc thanh toán tiền phù hợp với giá bán ghi trên hoá đơn thì chưa xác định là hành vi trốn thuế. Trường hợp này, cơ quan thuế căn cứ giá thị trường trong nước, nước ngoài tại thời điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ để xác định lại giá bán để tính truy thu đủ các loại thuế theo đúng quy định.
Trường hợp cơ quan thuế không xác định được giá bán làm căn cứ truy thu thuế thì có thể trưng cầu tổ chức định giá được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để xác định lại giá mua, giá bán làm căn cứ truy thu
Ở trường hợp này chúng ta đang tranh luận về phần vượt định mức, khi đã hạch toán vượt đinh mức rồi, xác định KQKD rồi, đương nhiên kế toán đã xác định chi phí vượt định mức đó là hợp lý nhưng cơ quan thuế xác định những khoản này không hợp lý, xuất toán thì đó là các căn cứ để truy thu thuế GTGT, TNDN cho dù hóa đơn đó có hợp lý, hợp lệ, hợp pháp. Còn nếu hóa đơn đó chưa phân bổ thì cơ quan thuế mới không giám truy thu thuế GTGT. Cơ quan thuế kiểm tra từng yếu tố chứ không kiểm tra 1 cái hóa đơn đó. Có thể 1 hóa đơn 1000 tấn thép nhưng kế toán phân bổ cho nhiều công trình, nếu phân bổ cho 1 công trình nào đó 100 tấn mà cơ quan thuế thấy bất hợp lý, vượt mức 10 tấn hoặc đến 90 tấn thì chỉ truy thu số thuế GTGT vượt mức đó thôi chứ không thể truy thu cả hóa đơn 1000 tấn đó.
Ta nên xác định trọng tâm câu hỏi về phần vượt định mức và thuế GTGT chứ đừng bận tâm đến những vấn đề khác, mọi người chỉ xác định nó vượt định mức một ít thì có thể cơ quan thuế bỏ qua hoặc thấy không nghiêm trọng. Vì vậy cũng như trường hợp đó tôi mới ví dụ vượt một khối lượng lớn để mọi người thấy mức độ nghiêm trọng của việc này, chứ nếu không truy thu thuế GTGT thì chắc hẳn kế toán có nhiều cách có thể lách các hóa đơn đầu vào.