Qua ý kiến của các bác tôi thấy các bác chưa thực sự hiểu bản chất của các nguồn cấu thành TSCĐ. Các nguồn này chính là các quỹ mà Cty tách ra từ nguồn vốn chủ sở hữu như quỹ ĐTPT, quỹ ĐT XDCB... Việc chia tách các nguồn này chỉ là để phân định giới hạn sử dụng nguồn vốn CSH vào các mục đích khác nhau của Cty. Khi Cty sử dụng 1 quỹ nào đó (chẳng hạn như mua TSCĐ mới bằng quỹ ĐTPT) thì ta thấy có sự kết chuyển nguồn (tăng NVKD, giảm quỹ ĐTPT) đồng thời hình thái cụ thể của nó chính là chuyển hoá của các TS có tính thanh khoản cao (tiền, tương đương tiền...) thành TSCĐ.
ở đây, tuỳ thuộc vào việc Cty có trích lập các quỹ hay không có thể có 2 trường hợp:
1. Cty có trích lập các quỹ:
BT1) Ghi tăng TSCĐ:
Nợ 211, 133
Có 111,112, 331...
BT2) Kết chuyển nguồn hình thành TSCĐ (tăng nguồn vốn KD, giảm nguồn tài trợ để mua TSCĐ): Nợ 441, 414... / Có 411
hoặc ghi đơn Có TK 009 (TSCĐ ĐT bằng nguồn vốn khấu hao cơ bản)
2. Cty không trích lập các quỹ:
Trường hợp này sẽ không có BT2 mà chỉ có BT1 vì không trích lập các quỹ cũng có nghĩa là không có nhu cầu theo dõi sự thay đổi các nguồn quỹ đó. Khi đó, việc mua TSCĐ đơn thuần chỉ là:
a) sự thay đổi kết cấu của TS (trường hợp mua trả tiền ngay): Tăng TS này giảm TS khác.
Nợ 211 (tăng TSCĐ)
Có 111, 112 (giảm TS khác: tiền...)
hoặc: b) sự thay đổi kết cấu TS-NV (trường hợp mua khác): Tăng TS => tăng NV
Nợ 211 (tăng TSCĐ)
Có 331 (tăng công nợ người bán )
Có 311, 341... (tăng nợ vay...)
Tất cả đều là từ ý nghĩa của bảng CĐKT mà ra thôi mà!