MIỄN GIẢM THUẾ TNDN TRONG TRƯỜNG HỢP CHUYỂN LỖ:
CẦN THÊM NHỮNG QUY ĐỊNH CỤ THỂ
Theo quy định tại điểm 08 Mục III Phần E Thông tư số 128/2003/TT-BTC ngày 22/12/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành Luật thuế TNDN: "Cơ sở kinh doanh sau khi quyết toán thuế mà bị lỗ thì được chuyển lỗ trừ vào thu nhập chịu thuế của những năm sau. Thời gian chuyển lỗ không quá 5 năm, kể từ năm tiếp sau năm phát sinh lỗ. Cơ sở kinh doanh khi phát sinh lỗ phải có kế hoạch chuyển lỗ và đăng ký kế hoạch chuyển lỗ với cơ quan thuế. Cơ sở kinh doanh không được chuyển lỗ nếu không đăng ký với cơ quan thuế hoặc chuyển lỗ ngoài kế hoạch chuyển lỗ đã đăng ký với cơ quan thuế". Tại điểm 1.3 Mục IV phần E Thông tư số 128 quy định: "Thời gian tính miễn thuế, giảm thuế được tính liên tục kể từ năm đầu tiên cơ sở kinh doanh có thu nhập chịu thuế chưa trừ số lỗ được chuyển".
Theo các quy định trên, kể từ năm 2004, sau khi quyết toán thuế nếu phát sinh lỗ thì cơ sở kinh doanh phải lập kế hoạch chuyển lỗ gửi cơ quan thuế, để được chuyển lỗ trừ vào thu nhập chịu thuế của những năm sau. Thời điểm xác định mốc xem xét miễn giảm thuế được tính bắt đầu từ năm đầu tiên phát sinh thu nhập chịu thuế, chưa trừ số lỗ được chuyển.
Giả định doanh nghiệp A là cơ sở sản xuất mới thành lập tháng 4/2004, thuộc đối tượng được xét miễn giảm thuế TNDN. Kết thúc năm 2004, sau khi quyết toán thuế kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được xác định là lỗ 400 triệu đồng. Doanh nghiệp A đã lập kế hoạch chuyển lỗ gửi cơ quan thuế. Theo đó, số lỗ của đơn vị sẽ được trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp kể từ năm 2005. Số lỗ được chuyển theo kết quả kinh doanh của từng năm; số lỗ chuyển tối thiểu bằng số lãi của năm sau, tối đa bằng số lỗ còn lại chưa chuyển hết.
Năm 2005, theo quyết toán thuế kết quả hoạt động kinh doanh trong năm của doanh nghiệp được xác định là lãi 100 triệu đồng. Đơn vị thưc hiện chuyển lỗ của năm 2004, theo kế hoạch đã lập trừ vào thu nhập của năm 2005 với số lỗ được chuyển là 100 triệu đồng. Do đó, thu nhập chịu thuế năm 2005 sau khi chuyển lỗ của doanh nghiệp bằng 0, và thuế TNDN phải nộp năm 2005 của doanh nghiệp cũng bằng 0. Như vậy, nếu theo quy định (tại điểm 1, 3 Mục IV Phần E Thông tư số 128) thời gian tính miễn thuế của doanh nghiệp A đã được xác định từ năm 2005 mặc dù trong năm 2005 doanh nghiệp không phát sinh thuế phải nộp. Điều này doanh nghiệp sẽ khó chấp nhận vì cho rằng thuế TNDN được xét miễn theo quy định phải bắt đầu kể từ khi phát sinh thu nhập chịu thuế. Nhưng năm 2005 doanh nghiệp không phát sinh thu nhập chịu thuế, không phát sinh thuế phải nộp và không thể xem là đã được xét miễn thuế TNDN.
Cũng giả định trên, nhưng doanh nghiệp A sau khi dự kiến được kết quả kinh doanh của những năm sau đã lập kế hoạch chuyển lỗ kể từ năm sau thời gian được xét miễn, giảm thuế TNDN. Chắc chắn kế hoạch chuyển lỗ này của doanh nghiệp A sẽ không được chấp nhận vì không đúng theo quy định là chuyển lỗ không quá 5 năm, kể từ năm tiếp sau năm phát sinh lỗ. Như vậy, trong trường hợp này, việc quy định phải lập kế hoạch chuyển lỗ chỉ có tác dụng trong việc xác định được số lỗ chuyển trong từng năm hoặc các doanh nghiệp không thuộc đối tượng miễn giảm thuế. Điều này gây ảnh hưởng đến chính sách miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp sản xuất mới thành lập, vì việc xét miễn giảm thuế TNDN đặt ra trong trường hợp này không có ý nghĩa về mặt kinh tế và hiệu quả kinh doanh của đơn vị.
Trường hợp khác, doanh nghiệp A thành lập từ năm 2002 và kết quả kinh doanh trong năm 2002 là lỗ. Đơn vị đã chuyển một phần số lỗ trừ vào thu nhập chịu thuế của năm 2003. Như vậy doanh nghiệp A có phải lập kế hoạch chuyển lỗ cho số lỗ còn lại hay không và thời gian tính miễn giảm thuế được xác định kể từ thời điểm nào? Vì Thông tư số 128 được áp dụng kể từ kỳ tính thuế năm 2004.
Từ những vấn đề trên cho thấy Bộ Tài chính cần có thêm những quy định cụ thể hơn nhằm tránh tình trạng vận dụng tuỳ tiện trong quá trình thực hiện.
Thời báo Tài chính