Ta có thể thấy, Công ty A có quyền và nghĩa vụ trên tư cách thành viên góp vốn của Công ty B (không liên quan đến C), hưởng lợi ích trực tiếp là 70% lợi nhuận thu được từ Kết quả HĐSXKD của B.
Thoả thuận này sẽ làm mất cân bằng lợi ích của các thành viên tham gia góp vốn. Cty A sẽ được hưởng lợi nhiều hơn thành viên khác so với tỉ lệ góp vốn.
Ví dụ B lỗ, C lãi, khi LN từ C chuyển về đủ 100% thì B có thể lãi hoặc giảm lỗ, nhưng thoả thuận này làm cho A được mặc nhiên hưởng 70% từ C mà không cần biết B lãi lỗ ra sao. Với tư cách thành viên cùng với 30% vốn còn lại của B, thoả thuận này là bất bình đẳng, trái với quy định của Luật.
Luật DN nói:
Điều 41. Quyền của thành viên
Luật DN nói:
1. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có các quyền sau đây:
...
b) Có số phiếu biểu quyết tương ứng với phần vốn góp;
.....
d) Được chia lợi nhuận tương ứng với phần vốn góp sau khi công ty đã nộp đủ thuế và hoàn thành các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật;
Trong các loại hình DN khác cũng quy định tương tự vậy (ví dụ Hưởng lãi trên cổ phần).
Luật DN được ban hành để tạo ra sân chơi bình đẳng cho các loại hình Dn và các cá thể tham gia trong đó. Do vậy, Công ty phải soạn điều lệ dựa trên cơ sở luật DN, Nhà nước sẽ không chấp nhận những khoản mục nào trong điều lệ trái luật, ví dụ như trường hợp này, thoả thuận đã vi phạm quyền cơ bản nhất của thành viên tham gia góp vốn vào công ty là "Được chia lợi nhuận tương ứng với phần vốn góp".
===> Không thể quy định điều khoản này trong điều lệ Công ty.
Thoả thuận này chỉ có thể đúng với luật pháp và phù hợp với ý chí của các thành viên khi quy định như sau:
- Công ty B đồng ý chuyển nhượng cho Công ty A quyền sở hữu 70% phần vốn góp của mình tại công ty C.
Lúc đó tất cả mọi chuyện đều hợp lệ, hợp pháp.