Những năm gần đây, chính sách tài chính kế toán, thuế ban hành, sửa đổi, bổ sung đã góp phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế đất nước không ngừng tăng trưởng, thể hiện: nhiều thành phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh, ngành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) đa dạng, phong phú, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần phải có sự hướng dẫn cụ thể và thống nhất của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế. Ðối với các khoản chi không được phép tính vào thu nhập chịu thuế để làm căn cứ tính thuế TNDN, chuyển lỗ, miễn giảm thuế, cụ thể như sau:
Theo quy định tại điểm 15 mục III phần B Thông tư 18/2002/TT-BTC ngày 20/2/2002 của Bộ Tài chính, thì một số khoản chi như là chi ủng hộ các đoàn thể, tổ chức xã hội, chi sự nghiệp, chi ốm đau thai sản ... doanh nghiệp không được tính vào chi phí để xác định thu nhập chịu thuế. Như vậy theo quy định trên thì các khoản chi trên nếu có phát sinh phải được chi từ các quỹ của doanh nghiệp.
Trong thực tế nguồn hinh thành các quỹ của doanh nghiệp như quỹ tích lũy, quỹ khen thưởng, phúc lợi được trích lập từ lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (Nợ TK 421/Có các TK 415, TK 431), đồng thời theo quy định của chế độ kế toán thì TK 415, TK 431 nếu có số dư thì được phản ánh bên Có và không thể hiện có số dư bên Nợ. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn nhiều doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh bị lỗ liên tục, không có lợi nhuận để trích lập quỹ (tức là không có số dư các TK 415, 431), nhưng vẫn phải chi những khoản chi nêu trên và hạch toán nợ TK 415, 431/Có TK 111. Như vậy lúc này TK 415, 431 lại có số dư bên Nợ, điều này trái với quy định của chế độ kế toán hiện hành.
Ðể khắc phục tồn tại nêu trên: Ðối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có lợi nhuận để hình thành các quỹ khi chi các khoản tiền như: chi ủng hộ các đoàn thể, tổ chức xã hội, chi sự nghiệp, chi ốm đau thai sản, phải hạch toán (Nợ TK 415, 431/Có TK 111) để không ảnh hưởng đến việc xác định thu nhập chịu thuế làm căn cứ tính thuế TNDN. Ðối với những doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh bị lỗ liên tục, không có lợi nhuận để trích lập các quỹ, nhưng vẫn phải chi những khoản chi nêu trên thì được hạch toán (Nợ TK 642/Có TK 111), cuối năm vẫn kết chuyển toàn bộ chi phí trên TK 642 sang TK 911 (Nợ TK 911/có TK 642), tiếp tục kết chuyển toàn bộ chi phí từ TK 911 sang TK 421 (Nợ TK 421/ Có TK 911); Lúc này doanh nghiệp căn cứ vào những điều khoản quy định của Luật thuế TNDN để tiến hành điều chỉnh tăng giảm thu nhập chịu thuế để làm căn cứ tính số thuế TNDN phải nộp theo đúng chế độ quy định và xác định thực lãi (lỗ) của doanh nghiệp, nghĩa là trong trường hợp này doanh nghiệp tiến hành giảm chi phí đúng bằng khoản chi phí đã chi ủng hộ các đoàn thể, tổ chức xã hội, chi sự nghiệp, chi ốm đau thai sản ...; lúc này thu nhập chịu thuế sẽ tăng lên đúng bằng khoản chi trên. Sau khi tính số thuế TNDN phải nộp theo đúng luật định, doanh nghiệp sẽ tiến hành xác định số thực lãi (hoặc lỗ) bằng cách tổng thu nhập kế toán trừ (-) thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Trong trường hợp doanh nghiệp có kết quả kinh doanh thực lãi thì sẽ không xảy ra vướng mắc gì; tuy nhiên nếu kết quả SXKD của doanh nghiệp thực lỗ thì sẽ liên quan đến vấn đề chuyển lỗ để làm căn cứ tính thuế TNDN năm sau. Như vậy năm sau doanh nghiệp chỉ được phép chuyển lỗ bằng đúng số lỗ mà doanh nghiệp tính đúng quy định của luật thuế TNDN, còn số lỗ do các khoản chi trên sẽ không được phép chuyển lỗ để tính thuế TNDN năm sau mà doanh nghiệp chỉ được bù trừ vào khoản lợi nhuận sau thuế TNDN năm sau hoặc doanh nghiệp phải ghi giảm nguồn vốn kinh doanh (trong trường hợp những năm sau doanh nghiệp bị lỗ liên tục) (Nợ TK 411/Có TK 421). Ví dụ: Trong năm 2002 kết quả sản xuất kinh doanh doanh nghiệp A bị lỗ là 110 triệu đồng trong đó lỗ do chi phí các khoản ủng hộ các đoàn thể, tổ chức xã hội, chi sự nghiệp, chi ốm đau thai sản là 10 triệu đồng. Như vậy doanh nghiệp A chỉ được phép chuyển lỗ sang năm 2003 để làm căn cứ xác định thu nhập chịu thuế là 100 triệu đồng và khoản 10 triệu đồng doanh nghiệp không được phép chuyển lỗ để tính thuế TNDN năm 2003, mà doanh nghiệp chỉ được bù trừ vào khoản lợi nhuận sau thuế TNDN năm 2003 hoặc trong trường hợp ngược lại doanh nghiệp phải ghi giảm nguồn vốn kinh doanh (Nợ TK 411/Có TK 421: 10 triệu đồng).
Theo quy định của Luật thuế TNDN về chế độ miễn giảm áp dụng cho các doanh nghiệp SXKD thuộc diện miễn giảm thuế TNDN, thì thời gian bắt đầu để xét miễn giảm là kể từ khi doanh nghiệp có phát sinh thu nhập chịu thuế. Vấn đề này có nhiều ý kiến cho rằng thời gian bắt đầu để xét miễn giảm là kể từ khi doanh nghiệp có phát sinh thu nhập chịu thuế không tính phần lỗ được phép chuyển của những năm trước đó; ví dụ năm 2002 số lỗ được phép chuyển sang năm 2003 là 100 triệu, giả sử năm 2003 phát sinh thu nhập chịu thuế là 40 triệu. Như vậy, theo ý kiến trên thì thời gian bắt đầu để xét miễn giảm là năm 2003. Theo chúng tôi thì các ý kiến trên chưa hợp lý vì thu nhập chịu thuế để làm căn cứ tính thuế TNDN phải nộp năm 2003 là số thu nhập chịu thuế phát sinh trong năm 2003 trừ đi số lỗ của năm 2002 được phép chuyển sang, như vậy theo ví dụ trên thì năm 2003 doanh nghiệp chẳng những không phải nộp thuế TNDN mà còn được phép chuyển lỗ sang năm 2004 với số tiền là 60 triệu đồng.
Theo ví dụ trên giả sử thu nhập chịu thuế phát sinh trong năm 2004 là 70 triệu đồng, thu nhập chịu thuế để làm căn cứ tính thuế TNDN phải nộp năm 2004 là 10 triệu đồng (70 - 60). Như vậy theo chúng tôi nghĩ thời gian bắt đầu xét miễn giảm thuế cho doanh nghiệp A là năm 2004, kể từ năm 2005, 2006, nếu doanh nghiệp SXKD bị lỗ coi như doanh nghiệp mất đi thời gian được xét miễn giảm./.
Trương Văn Giang