Kế toán Việt Nam quen có các hướng dẫn chi tiết, cụ thể rồi nên rơi vào các tình huống đòi hỏi xét đoán là thấy không có lối ra.
Căn cứ để làm kế toán là chuẩn mực, chế độ kế toán chứ không phải các hướng dẫn làm cơ sở tính thuế. Đành rằng để hài hoà giữa thuế và kế toán (theo thực tế thực hành ở Việt Nam) thì nên áp dụng chung các cơ sở tính thuế và kế toán.
Một may mắn cho các kế toán Việt Nam là các quy định về thuế của Việt Nam thường bám theo kế toán (tất nhiên cũng có nhiều quy định của kế toán chạy theo thuế, mặc dù không đúng bản chất nhưng để đơn giản cho kê khai thuế).
Thông tư 228 quy định chi phí dở dang bị tổn thất phải lập dự phòng:
Điều 4. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
1. Đối tượng lập dự phòng bao gồm nguyên vật liệu, dụng cụ dùng cho sản xuất, vật tư, hàng hóa, thành phẩm tồn kho (gồm cả hàng tồn kho bị hư hỏng, kém mất phẩm chất, lạc hậu mốt, lạc hậu kỹ thuật, lỗi thời, ứ đọng, chậm luân chuyển...), sản phẩm dở dang, chi phí dịch vụ dở dang (sau đây gọi tắt là hàng tồn kho) mà giá gốc ghi trên sổ kế toán cao hơn giá trị thuần có thể thực hiện được và đảm bảo điều kiện sau:
- Có hóa đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định của Bộ Tài chính hoặc các bằng chứng khác chứng minh giá vốn hàng tồn kho.
- Là những vật tư hàng hóa thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp tồn kho tại thời điểm lập báo cáo tài chính.
Trường hợp nguyên vật liệu có giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn so với giá gốc nhưng giá bán sản phẩm dịch vụ được sản xuất từ nguyên vật liệu này không bị giảm giá thì không được trích lập dự phòng giảm giá nguyên vật liệu tồn kho đó.
Trong trường hợp này kế toán có đầy đủ các bằng chứng khách quan để xét đoán khả năng và đo lường được giá trị thuần có thể thực hiện được của khoản chi phí dở dang kia nên việc lập dự phòng là bắt buộc để đáp ứng các yêu cầu của chuẩn mực, chế độ kế toán.