ngannhat
Cao cấp
- 20/8/15
- 342
- 92
- 28
- 41
Sao mấy cái này không làm dự thảo trước đưa ra bàn luận rồi mới ra TT. TT ra rồi bắt làm theo khi có vấn đề phát sinh lại đổ cho lỗi đánh máy. Chán hết muốn làm kế toán luôn
Vấn đề này BTC đã rút kinh nghiệm rồiSao mấy cái này không làm dự thảo trước đưa ra bàn luận rồi mới ra TT. TT ra rồi bắt làm theo khi có vấn đề phát sinh lại đổ cho lỗi đánh máy. Chán hết muốn làm kế toán luôn
Vấn đề này BTC đã rút kinh nghiệm rồi
Có một vấn đề rất Việt Nam là sự tự nguyện trong việc tham gia góp ý cho các văn bản pháp luật là rất yếu, kể cả các công ty kiểm toán, các kế toán trưởng, các giảng viên đại học.
Chuẩn mực mới chắc năm nay ra, nhưng ít nhất cũng phải sau Luật kế toán vì vướng một số nguyên tắc của Luật kế toán 2003.Chuẩn mực Kế toán sửa đổi và mới dự tính khi nào ban hành vậy anh @Hien?
Bữa giờ em cứ thắc mắc là Nguyên tắc bảo toàn vốn sẽ được áp dụng trong thực tế như thế nào, thể hiện ở điểm nào trong chế độ kế toán, trong chuẩn mực kế toán cụ thể. Anh nói thêm cho mọi người học hỏi được không ạh.
Bảo toàn vốn tài chính theo đơn vị tiền tệ danh nghĩa: Lợi nhuận là phần tăng thêm giữa cuối kỳ và đầu kỳ của khoản chênh lệch giữa tài sản và Nợ phải trả (Phần tăng lên của Tài sản thuần) theo giá trị danh nghĩa sau khi điều chỉnh các khoản tăng giảm vốn chủ trực tiếp (góp vốn, rút vốn, chia lợi nhuận). Mô hình kế toán giá gốc theo phương pháp này.
Bảo toàn vốn tài chính theo đơn vị tiền tệ thực tế: Theo mô hình trên nhưng giá trị tài sản đầu kỳ được điều chỉnh theo sự thay đổi của lạm phát. Mô hình này áp dụng trong nền kinh tế siêu lạm phát (IAS 29, Việt Nam chưa áp dụng chuẩn mực này).
Bảo toàn vốn vật chất: Tính theo công thức trên nhưng tài sản được tính theo giá thị trường. Mô hình này áp dụng trong các chuẩn mực áp dụng fair value (Việt Nam chưa có chuẩn mực nào do Luật 2003 chỉ cho phép mô hình giá gốc).
Như vậy, có phải khái niệm Bảo toàn vốn bao trùm lên các nguyên tắc kế toán và hình thành các loại giá như: Giá gốc, Giá trị hợp lý... không nhỉ?
Thực ra cái từ bảo toàn vốn là đo lường vốn làm sao hợp lý nhất, tránh dẫn đến việc đo lường lợi nhuận không hợp lý, rồi chia lợi nhuận mà không bảo toàn được vốn.Qua bài viết của anh, em thấy rằng việc đưa ra khái niệm bảo toàn vốn để cho Nhà đầu tư thấy thực sự số vốn mà họ bỏ ra thực tế đang tăng lên hay giảm đi tuỳ theo quan điểm của họ. Ví dụ: Họ bỏ ra 100 lượng vàng (tương đương 2,8 tỷ VND) để đầu tư, Sau 5 năm có kinh doanh có lãi vốn của họ tăng lên là 3,8 tỷ. Tuy nhiên, giá vàng lúc này là 39 tr/ lượng => không bảo toàn được vốn
Tính toán và hạch toán như thế nào cho đúng chi phí phát hành trái phiếu theo Thông tư 200.
Phần 1 của bài viết bàn về hạch toán đối với trái phiếu thường, Phần 2 bàn về xử lý kế toán chi phí phát hành với trái phiếu chuyển đổi.
Phần 1 trên trang chủ WKT:
http://www.webketoan.vn/ke-toan-phat-hanh-trai-phieu-phan-1.html
Theo US GAAP (mới sửa 4/2015) và IGAAP thì chi phí phát hành trái phiếu được theo dõi tách biệt với mệnh giá, và khi trình bày báo cáo tài chính thì nó được trừ vào mệnh giá để tính giá trị thuần của khoản nợ.Chi phí này là chi phí phát hành nên mục đích của chi phí đã hoàn thành khi DN hoàn tất việc phát hành trái phiếu => không còn thu được lợi ích trong tương lai nữa => không ghi nhận là Tài sản
Khi ghi nhận toàn bộ chi phí phát hành là nợ phải trả (đồng thời với ghi nhận 1 tài sản) => Nợ phải trả bằng tổng mệnh giá trái phiếu, tuy nhiên, nghĩa vụ hiện tại của Đơn vị chỉ bằng tổng mệnh giá tại thời điểm kết thúc thời hạn của trái phiếu, còn trong hiện tại thì nghĩa vụ hiện tại sẽ nhỏ hơn mệnh giá => không ghi toàn bộ chi phí phát hành là Nợ phải trả 1 lần lúc phát sinh chi phí.
Như vậy có đúng không anh?
Theo US GAAP (mới sửa 4/2015) và IGAAP thì chi phí phát hành trái phiếu được theo dõi tách biệt với mệnh giá, và khi trình bày báo cáo tài chính thì nó được trừ vào mệnh giá để tính giá trị thuần của khoản nợ.
Việc trình bày chi phí phát hành trừ vào khoản nợ chứ không ghi vào tài sản sẽ phù hợp với ghi nhận và trình bày chi phí phát hành cổ phiếu, khoản này làm giảm số vốn huy động được...
Thì cũng như em và anh nói ở trên thôi. Lí do là chi phí phát hành không đem lại lợi ích kinh tế trong tương lai nên không thể vốn hóa là tài sản. Nó làm giảm số tiền thu được từ phát hành trái phiếu nên được xử lý tương tự như chiết khấu trái phiếu khi tính lãi thực của khoản vay từ trái phiếu.Ok anh. Ý em muốn hỏi về lý do của việc thay đổi từ vốn hoá chi phí phát hành sang việc trừ vào giá trị ghi sổ của khoản nợ trái phiếu là gì đó anh?
Nếu thực sự đúng như lập luận của em thì phải trình bày khoản này là Nợ tiềm tàng trên BCTC, trừ khi gần như chắc chắn là không có ai nghỉ trước tuổi về hưu.Nhân đây em cũng muốn bàn về việc trích Quỹ dự phòng mất việc làm. Hiện nay, kiểm toán yêu cầu trích lúc lập BCTC bán niên. Tuy nhiên, em nói không trích 2 quỹ này với lý do:
(1) Nếu người lao động không nghỉ việc mà làm tới khi về hưu thì không phát sinh chi trợ cấp, căn cứ trích lập dựa vào mức lương từng người và thâm niên tính đến ngày 31/12/2008, tuy nhiên, có phải họ có phải nghỉ cùng lúc đâu, mà vài năm mới có 1 người nghỉ... => nghĩa vụ hiện tại của DN có giá trị và thời gian không xác định được một cách tin cậy. Cho nên, chỉ khi nào có người nghỉ mà có thời gian lam việc trước 2009 mới tiến hành chi trợ cấp.
Quỹ lương tháng 13 phát sinh do sử dụng người lao động trong cả 12 tháng nên cần được tính vào chi phí của cả 12 tháng. Số người lao động nghỉ không nhiều nên các công ty có thể ước tính được số này.2. Nếu có người nghỉ vào giữa năm thì không có chi, vì vậy quỹ lương tháng 13 phải để đén cuối năm xác định và trích 1 lần.