Mình thì lại nghĩ khác.
Ví dụ Trong hợp đồng kinh tế, bạn mua 1 tài sản cố định gì đó chẳng hạn (cái này là tùy loại tài sản, hoàn toàn có thể xuất hóa đơn ngay, hoặc xuất hóa đơn sau-nhưng phải tương ứng với chứng từ chuyển hàng hóa dịch vụ chứ không liên quan tới chứng từ thanh toán) Nếu giả sử ký hợp đồng mua cái Ô tô không lẽ đi xuất hóa đơn từng phần của cái Ô tô sao.
Việc thanh toán tiền không ép phải đi theo hóa đơn mà tùy thuộc vào hợp đồng kinh tế ghi nhận thỏa thuận của 2 bên thế nào, và tùy thuộc vào bản chất của loại hàng hóa dịch vụ thể hiện trong hợp đồng.
Trong trường hợp này. Ví dụ, cty A đặt mua 1 lô nông sản của Cty B, tổng giá trị thanh toán là 2 tỷ đồng, Cty A ứng trước tiền hàng trả cho cty B là 330tr. (Cái này mà làm về nông sản thì gặp đầy rẫy).
Giờ ngưng hợp đồng, và bạn giữ lại 30tr, nghĩa là có điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại, bạn phải làm rõ chỗ này. Các chứng từ hóa đơn cần có:
Biên bản thỏa thuận hủy ngang hợp đồng kinh tế
Biên bản xác nhận mức thiệt hại và thỏa thuận bồi thường thiệt hại thỏa thuận mức phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, ghi rõ chi tiết (theo quy định của pháp luật thì tổng mức phạt không quá 12% hay 8% gì đó của giá trị hợp đồng - con số này mình nhớ không chính xác nhưng là có quy định rõ ràng, bạn tìm hiểu thêm).
Biên bản thanh lý hợp đồng (mấy cái trên có thể làm gộp nội dung vào biên bản này)
Hóa đơn xuất về khoản tiền 30tr (tiền phạt vi phạm hợp đồng hoặc tiền bồi thường tổn thất từ việc không thực hiện hợp đồng, nếu khoản phạt đó hợp lệ) và treo ngay vào doanh thu 711 nhé
Các chứng từ chuyển trả tiền có liên quan.
Các bạn nên nhớ, phạt nó khác với bồi thường thiệt hại, bồi thường thiệt hại là mình chứng minh được bị thiệt hại gì, thì bồi thường đó, phạt là do thỏa thuận đàm phán của 2 bên.
Ở đây đối với khách hàng khoản tiền bị phạt vì vi phạm hợp đồng kinh tế không được xem là khoản chi phí đủ điều kiện khấu trừ (trừ trường hợp do thiên tai, dịch họa, cháy... 2 bên vẫn chấp thuận các khoản phạt vi phạm hợp đồng thì được khấu trừ chi phí) nên 30tr đó thì khỏi quan tâm phương thức chuyển trả.
Còn TT39 mình soi đi soi lại cũng chả thấy chút liên quan gì giữa việc thu tiền với việc xuất HĐ. Chả biết @xuantham nói sai là sai chỗ nào. Vấn đề ở đây là khách hàng có yêu cầu xuất hóa đơn hay không. @TVG @Kin7
Việc định khoản ở thời điểm nhận 330tr, tại sao lại suy nghĩ cho nó phức tạp
Chỉ việc Nợ 111 (112) có 131
Chả có liên quan gì tới thuế hay doanh thu ở đây cả, đơn giản là ứng trước tiền hàng chấm hết.
1. Bạn phân biệt thời điểm lập hoá đơn của mua bán hàng hoá khắc với cung cấp dịch vụ. Cái đó là là quy định nên không thể nói là không lẻ. Và bạn phân biệt thêm:
- Nội dung dịch vụ ở đây là cung cấp dịch vụ thiết kế : thời điểm lập hoá đơn là dịch vụ hoàn thành hoặc thời điểm nhận tiền
- Nội dung bạn đừa ra là bán hàng hoá & nội nội dung khác là cho thuê tài sản. 2 cái này có 2 quy định riêng khác so với cung cấp dịch vụ thiết kế.
- Việc ứng tiền mua nông sản là nó lại khác nữa.
2. Các nội dung tôi nói đều căn cứ theo thực tế phát sinh để chọn cách xử lý phù hợp để thực hiện chứ không gom ra để làm hợp thức hoá chứng từ. Nếu bạn đứng ở gốc độ làm ra chứng từ để nói này nói nọ với cơ quan thuế hay cơ quan nào đó thì không nên đọc bài của tôi. Bài tôi viết toàn liên quan đến việc xử lý thực tế sao cho DN an toàn về thuế, thủ tục thuế và các phương pháp làm việc thoả thuận và đàm phán của 2 bên thôi. Nguyên tắc đảm bảo kiểm soát được rủi ro đúng luật.
Như các bạn hạch toán khoản nhận 330triệu vào Có 131 theo tôi thì bạn làm vậy là đúng, nhưng tôi hạch toán 3387 vì tôi quan điểm rằng dịch vụ đang thực hiện, và có thể chi phí cũng đã phát sinh, nếu tôi hạch toán 3387 thì tôi dễ lưu ý hơn về các khoản chi phí tạo ra doanh thu tương ứng với cái khoản 3387 thôi. Còn các bạn hạch toán thế nào là tuỳ quan điểm của bạn thôi. Ở đây là tư vấn thiết kế thì chắc chắn cũng sẽ có chi phí phát sinh cho việc thực hiện hợp đồng rồi, chứ không dễ gì người ta chuyển 300 triệu mà không làm gì
3. Nội dung trên đây phát sinh bạn dùng từ huỷ hợp đồng, còn tôi dùng từ ngưng hợp đồng, vì ở đây là 2 bên thoả thuận ngưng thôi chứ không nêu lổi vi phạm hợp đồng. Và cách tôi chọn giải pháp biên bản thoả thuận cũng chỉ để phòng hờ việc không có thoả thuận trong hợp đồng thì cái việc nhận 30 triệu được ghi nhận trong 1 thoả thuận như phụ lục và thoả thuận ngưng hợp đồng, có thể có nhiều lý do để ngưng hợp đồng chứ không phải là chỉ có lổi ( ví dụ như năng lực khg đủ tiếp tục thực hiện nên chấm nhận bồi thường 30 triệu là chi phí thấp nhất, và tốt nhất). Còn nếu trong hợp đồng đầy đủ thì làm theo ý bạn.
Tiền bồi thường theo quy định không phải lập hoá đơn, và luật chỉ quy điịnh phương thức thanh toán đối với thanh toán theo hoá đơn.
Trong hợp đồng sẽ thoả thuận các trường hơp phạt khi vi phạm hợp đồng, đối với hợp đồng thương mại luật định quy định <=8%, riêng đối với hợp đồng xây dựng <=12% giá trị hợp đồng. Còn việc yêu cầu bồi thường là khi 1 bên vi phạm hợp đồng mà 2 bên không tự thoả thuận được, không nhờ hoà giải được mà phải nhờ một bên thứ 3 như luật sư,Trọng Tài Kinh Tế hoặc kiện ra toà thì khi đó cần phải chứng minh thiệt hại để yêu cầu bồi thường.
Nội dung bên trên tôi nêu từ bồi thường là ở gaii đoạn 2 bên thoả thuận với nhau để ngưng hợp đồng, việc bồi thường là do thoả thuận vì thiệt hại ở đây có thể chưa xảy ra hoặc xảy ra nhưng không đáng kể ( không có việc ngưng hợp đồng nào mà không có thiệt hại cả, kể cả các hợp đồng ma cũng tốn kém).
Quan điểm của tôi là như vậy: khi soạn và chịu trách nhiệm xử lý các hợp đồng khi tranh chấp tôi đều đứng ở góc độ quan điểm và thực tế phát sinh như vậy, Tôi chia sẻ trãi nghiệm thực tế tranh chấp và quyết toán thuế cũng có hết . Còn các bạn có sử dụng hay không thfi tuỳ. Ngay cả tư vấn lấy tiền cũng vậy, chưa chắc là trả tiền cho mình tư vấn mà người ta làm nhưu vậy vì abc... gì đó khg nói ra