Vừa đi Đồng Văn (Hà Giang) về, có mấy dòng cảm nhận, chia xẻ với mọi người
1. Ở phía bên kia dốc Mã Pí Lèng, về phía Mèo Vạc, có một tấm bia kỷ niệm, dựng bên đường, ở khúc cua đẹp nhất, trông thẳng xuống thẳm sâu một khúc sông Nho Quế đục ngầu. Tấm bia ghi gì đó, đại loại như Đảng và chính phủ quyết đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, nên đã làm con đường Hà Giang- Đồng Văn- Mèo Vạc trong 6 năm, từ năm 1959 tới năm 1965, trong đó đoạn dốc Mã Pí Lèng này được những người làm đường treo mình trên vách đá làm trong 11 tháng.
2. Cái dốc Mã Pí Lèng này cũng như bao con đèo, con dốc khác của cung đường 4C từ Hà Giang, qua Quản Bạ, rồi Yên Minh, rồi Đồng Văn tới Mèo Vạc, chạy giữa một vùng núi đá, điệp trùng và hiểm trở. Từ Hà Giang lên Quản Bạ, địa hình còn có một chút tươi tốt, đường lên cao, lên cao, rồi gặp một vùng bình nguyên nhỏ, hẹp, bằng phẳng, rồi lại lên cao, lên cao, lại gặp bình nguyên, rồi lên cao mãi, lên tới Cổng Trời, và đi xuống. Từ Hà Giang đi Quản Bạ, đã gặp nhiều núi đá, nhưng màu xanh của cây rừng, của những cây ngô (thậm chí có cả lúa nước), dường như vẫn là màu chi phối. Những ngôi nhà ở đây, lợp ngói giống như ngói của những ngôi nhà ở miền xuôi, nhưng ngói có màu đen. Những ngôi nhà sàn sát đất, có những ô cửa sổ bé tý, thiếu ánh nắng mặt trời.
3. Từ Quản Bạ đi lên Yên Minh, rồi đi tới Đồng Văn, quãng đường dài trên dưới một trăm cây số, mất hơn ba tiếng đồng hồ chạy xe. Quãng đường đi quanh co, hiểm trở, qua biết vao nhiêu con đèo dốc không hề có gương cầu, có lan can an toàn, không hề có danh tính. Con đường chạy qua bạt ngàn đá và đá. Chiếc xe như con thuyền nhỏ, lao giữa đại đương đen thẳm những đá, những người trong xe như những kẻ tuyệt vọng giữa vòng vây của muôn vạn những chiến binh trong những bộ giáp sắt đen sì một hai như đang lao xuống. Cái góc này của Tổ quốc thật dữ dội, thật hùng tráng, mà không cay nghiệt dữ dằn. Những điệp điệp trùng trùng đá kia không hề khắc nghiệt như vẻ ngoài mang lại, nhìn thật kỹ, thì ở trong từng hốc đá, hẻm đã, vẫn có những vốc đất mùn tơi xốp, và người Dao, người Mông, trồng ngô trong những cái vốc đất bé con con bằng nắm tay ấy.
4. Ở đây, đi qua miền thiên nhiên khắc nghiệt này mới cảm phục sức sống mãnh liệt của những con người vùng này, của người Dao, người Mông, Tày, Nùng, Lô Lô, Xa phó và những người Hoa, người Kinh nữa. Cô bé người Nùng trên cùng chuyến xe ngược Đồng Văn vô cùng tự hào líu ló giới thiệu về huyện thị của mình gần như một người hướng dẫn chuyên nghiệp. Ở đây, ngoài người Kinh, thì có lẽ cộng đồng người Mông là đông nhất. Người Mông ở đây, cũng như ở bất kỳ nơi nào khác, giữ gìn bản sắc một cách toàn vẹn lạ thường. Vẫn cái kiểu định cư ấy, hoặc cheo leo trên lưng chừng núi, trong mây trong mù, hoặc dưới đáy những thung lũng thật xa, nối với thế giới “văn minh” bằng những con đường mòn mảnh như sợi chỉ, bằng những chân trần, hoặc chỏng lỏn xỏ những đôi giày ba ta mốc, cũ, rách, qua nhưng lởm chởm, sắc nhọn đá tai mèo. Hầu như, lúc nào nhìn thấy người Mông, là cũng nhìn thấy một sự cần cù, vất vả, hoặc là đang tra ngô, hoặc đang bổ cuốc ở những hốc đá bằng nắm tay ven đường, hoặc đang gùi những gùi đựng những can nước, đựng những cỏ cho bò ăn, đựng những gì gì ấy mà mình không kịp nhận ra. Vợ mình nói, sao chỉ thấy phụ nữ Mông anh nhỉ. Mà đúng vậy, chỉ thấy phụ nữ Mông làm quần quật, quần quật, từ những người phụ nữ, vừa địu con đằng sau, vừa tra ngô, bổ cuốc, tới những em bé (gái) Mông, có lẽ chỉ học lớp hai, lớp ba, cũng cầm những cái cuốc bé xíu để cuốc đất. Đi được một lúc, thấy câu trả lời cho vợ, một anh thanh niên Mông hồn nhiên và khoan khoái ngủ bên vệ đường. Ở Hà nội có lẽ ta sẽ nói là bị “sốc thuốc”, còn ở đây là say rượu, say cái rượu ngô được cất từ những cây ngô do vợ, do con trồng.
1. Ở phía bên kia dốc Mã Pí Lèng, về phía Mèo Vạc, có một tấm bia kỷ niệm, dựng bên đường, ở khúc cua đẹp nhất, trông thẳng xuống thẳm sâu một khúc sông Nho Quế đục ngầu. Tấm bia ghi gì đó, đại loại như Đảng và chính phủ quyết đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, nên đã làm con đường Hà Giang- Đồng Văn- Mèo Vạc trong 6 năm, từ năm 1959 tới năm 1965, trong đó đoạn dốc Mã Pí Lèng này được những người làm đường treo mình trên vách đá làm trong 11 tháng.
2. Cái dốc Mã Pí Lèng này cũng như bao con đèo, con dốc khác của cung đường 4C từ Hà Giang, qua Quản Bạ, rồi Yên Minh, rồi Đồng Văn tới Mèo Vạc, chạy giữa một vùng núi đá, điệp trùng và hiểm trở. Từ Hà Giang lên Quản Bạ, địa hình còn có một chút tươi tốt, đường lên cao, lên cao, rồi gặp một vùng bình nguyên nhỏ, hẹp, bằng phẳng, rồi lại lên cao, lên cao, lại gặp bình nguyên, rồi lên cao mãi, lên tới Cổng Trời, và đi xuống. Từ Hà Giang đi Quản Bạ, đã gặp nhiều núi đá, nhưng màu xanh của cây rừng, của những cây ngô (thậm chí có cả lúa nước), dường như vẫn là màu chi phối. Những ngôi nhà ở đây, lợp ngói giống như ngói của những ngôi nhà ở miền xuôi, nhưng ngói có màu đen. Những ngôi nhà sàn sát đất, có những ô cửa sổ bé tý, thiếu ánh nắng mặt trời.
3. Từ Quản Bạ đi lên Yên Minh, rồi đi tới Đồng Văn, quãng đường dài trên dưới một trăm cây số, mất hơn ba tiếng đồng hồ chạy xe. Quãng đường đi quanh co, hiểm trở, qua biết vao nhiêu con đèo dốc không hề có gương cầu, có lan can an toàn, không hề có danh tính. Con đường chạy qua bạt ngàn đá và đá. Chiếc xe như con thuyền nhỏ, lao giữa đại đương đen thẳm những đá, những người trong xe như những kẻ tuyệt vọng giữa vòng vây của muôn vạn những chiến binh trong những bộ giáp sắt đen sì một hai như đang lao xuống. Cái góc này của Tổ quốc thật dữ dội, thật hùng tráng, mà không cay nghiệt dữ dằn. Những điệp điệp trùng trùng đá kia không hề khắc nghiệt như vẻ ngoài mang lại, nhìn thật kỹ, thì ở trong từng hốc đá, hẻm đã, vẫn có những vốc đất mùn tơi xốp, và người Dao, người Mông, trồng ngô trong những cái vốc đất bé con con bằng nắm tay ấy.
4. Ở đây, đi qua miền thiên nhiên khắc nghiệt này mới cảm phục sức sống mãnh liệt của những con người vùng này, của người Dao, người Mông, Tày, Nùng, Lô Lô, Xa phó và những người Hoa, người Kinh nữa. Cô bé người Nùng trên cùng chuyến xe ngược Đồng Văn vô cùng tự hào líu ló giới thiệu về huyện thị của mình gần như một người hướng dẫn chuyên nghiệp. Ở đây, ngoài người Kinh, thì có lẽ cộng đồng người Mông là đông nhất. Người Mông ở đây, cũng như ở bất kỳ nơi nào khác, giữ gìn bản sắc một cách toàn vẹn lạ thường. Vẫn cái kiểu định cư ấy, hoặc cheo leo trên lưng chừng núi, trong mây trong mù, hoặc dưới đáy những thung lũng thật xa, nối với thế giới “văn minh” bằng những con đường mòn mảnh như sợi chỉ, bằng những chân trần, hoặc chỏng lỏn xỏ những đôi giày ba ta mốc, cũ, rách, qua nhưng lởm chởm, sắc nhọn đá tai mèo. Hầu như, lúc nào nhìn thấy người Mông, là cũng nhìn thấy một sự cần cù, vất vả, hoặc là đang tra ngô, hoặc đang bổ cuốc ở những hốc đá bằng nắm tay ven đường, hoặc đang gùi những gùi đựng những can nước, đựng những cỏ cho bò ăn, đựng những gì gì ấy mà mình không kịp nhận ra. Vợ mình nói, sao chỉ thấy phụ nữ Mông anh nhỉ. Mà đúng vậy, chỉ thấy phụ nữ Mông làm quần quật, quần quật, từ những người phụ nữ, vừa địu con đằng sau, vừa tra ngô, bổ cuốc, tới những em bé (gái) Mông, có lẽ chỉ học lớp hai, lớp ba, cũng cầm những cái cuốc bé xíu để cuốc đất. Đi được một lúc, thấy câu trả lời cho vợ, một anh thanh niên Mông hồn nhiên và khoan khoái ngủ bên vệ đường. Ở Hà nội có lẽ ta sẽ nói là bị “sốc thuốc”, còn ở đây là say rượu, say cái rượu ngô được cất từ những cây ngô do vợ, do con trồng.