Ôi!Đọc văn bản, đọc và trao đổi mà không biết mình đang nói về cái gì thì làm sao mà nói chuyện được.
Tôi nêu rõ ràng và phân biệt từng khách niệm cần phải làm rõ mà sao cứ nhập 1 cụ lại rồi suy luận suy đoán lung tung thì rối não.
Cái mình đang quan sát để nhìn ra bản chất là:
1. Phần mềm là gì?
2. Dịch vụ phần mềm là gì?
3. Thuê là gì?
4. Bán là gì?
Các bạn hãy đọc và nhìn ra nội dung đối tượng mình đang khảo sát là cái gì để hiểu đúng, chứ đừng đem cái mình muốn nghĩ nó là cái gì . Bởi vì những cái gì nó tồn tại, nó được hình thành là theo cái chức năng, cái mục đích tồn tại của nó. Nó khác với cái mình nghĩ.
Tôi đang nói đến sự khác biệt giữa cái việc cho thuê, với cái việc bán thì điều bạn cần nhìn thấy là thế nào là thuê? thế nào là bán? Nhìn ra cái gì để xem đó là thuê, hay là bán chứ không phải là nhìn coi cái món đó là cái gì để kết luận là mua hay bán.
Câu ví dụ đơn giản để bạn đọchiểu vànhìn ra vấn đề thì bạn không thích, bạn chỉ học thuộc lòng các tình huống đã xảy ra thì sẽ tạo cho bạn một giới hạn để phát triển đó.Nếu bạn không từ từ thay đổi cách đọc, cách tư duy của bạn thì sẽ rất khó khăn để hiểu ra vấn đề. Đây là một dính mắc, cái lổi rất khó có người đọc ra, rất khó có người có cách để giảng và nhìn nhận được là mình sai, và không hiểu mình đã sai cái gì.
Khi đọc các văn bản, các bạn nên đọc đầy đủ và khách quan.
Đọc cái nào hiểu đúng cái mình đang đọc, đừng đem cái nội dung khác để gắn vào cái mình đang đọc để hiểu.
hoặc đừng đem sẳn cái mình muốn nó như thế nào để mà đọc để mà hiểu. Đừng bỏ thái độ nhận xét, khi ban hành, khi làm ra cái văn bản đoá TÂM TRẠNG người ta như thế nào và đang muốn áp đặt cái gì.
Khi đọc thì phải hiểu được ý nghĩa từng câu chữ trong đó họ đang nói đến cái gì?
Khi đọc văn bản luật, những kiến thức khoa học mà nguồn taì liệu đáng tin cậy và chắc chắc là nguyên bản từ tác giả được chuyển vào bài viết được "nguyên vẹn" không mang theo định kiến hay thành kiến của người viêt thì khi thấy mình không biết hiểu như vậy thì hãy tìm hiểu vì sao mình không hiểu như văn bản kia đã viết, tôi nghĩ các bạn sẽ tìm và học được rất nhiều.
Khi viết bài, khi trao đổi , hay tư vấn tôi thường hỏi để rõ ra vấn đề, và để chốt lại nội dung tôi và người kia nói đúng về một vấn đề. Mọt cái sai của các bạn khi đọc và áp dụng văn bản luật, cái nội dung chỉ là học thuộc lòng mà không hiểu đó là gì về bản chất nên hay gán nội dung này vào nội dung kia để hiểu.
Đối với nhưng nội dụng này khác với các nội dung mà các bạn đã từng đọc, từng nghĩ cho thuê phần mềm thuế suất 10%, còn văn bản này lại cho rằng không chịu thuế. Vậy thì hãy tìm ra các khác biết ở cơ sở mình mình hiểu là cái gì? Còn cái cơ sổ mà văn bản này, bài viết này nói đến là gì? Các bạn không có thói quen tự đọc và tự tìm ra cách để hiểu mà chờ người khác tìm hiểu rồi nói lại cho mình biết. Không thể khá được với cách như vậy
Trong nội dung CV 5133/TCT-CS cái từ rất quan trọng để người đọc tìm hiểu thì lại bỏ qua. Đó là từ NẾU.
Các hoàn cảnh được nêu thì không đọc qua:
- Các cái điều khác nhau trong các công văn trên rất rõ. Công văn này đang nói đến dịch vụ cho thuê bản quyền mà đã được đinh nghĩa trong văn bản này là :
nếu hoạt động cho thuê bản quyền phần mềm là hoạt động cung cấp bản quyền phần mềm và thuộc các loại dịch vụ phần mềm quy định tại Điều 9 Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 03/05/2007 của Chính phủ .
Trong CV 371 được trích dẫn bên trên cũng đã phân biệt và hướng dẫn rất rõ. Cho thấy cái các bạn cần đọc kỹ lại điều 9 của NĐ 71 là gì? NÓi về
LOẠI HÌNH CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ THÔNG TIN - Đây chính là định nghĩa theo luật
Điều 9. Hoạt động công nghiệp phần mềm 1. Hoạt động công nghiệp phần mềm là hoạt động thiết kế, sản xuất và cung cấp sản phẩm và dịch vụ phần mềm, bao gồm sản xuất phần mềm đóng gói; sản xuất phần mềm theo đơn đặt hàng; sản xuất phần mềm nhúng; hoạt động gia công phần mềm và hoạt động cung cấp, thực hiện các dịch vụ phần mềm.
2. Các loại sản phẩm phần mềm bao gồm:
a) Phần mềm hệ thống;
b) Phần mềm ứng dụng;
c) Phần mềm tiện ích;
d) Phần mềm công cụ,
đ) Các phần mềm khác.
3. Các loại dịch vụ phần mềm bao gồm:
a) Dịch vụ quản trị, bảo hành, bảo trì hoạt động của phần mềm và hệ thống thông tin;
b) Dịch vụ tư vấn, đánh giá, thẩm định chất lượng phần mềm;
e) Dịch vụ tư vấn, xây dựng dự án phần mềm;
d) Dịch vụ tư vấn định giá phần mềm;
đ) Dịch vụ chuyển giao công nghệ phần mềm;
e) Dịch vụ tích hợp hệ thống;
g) Dịch vụ bảo đảm an toàn, an ninh cho sản phẩm phần mềm, hệ thống thông tin;
h) Dịch vụ phân phối, cung ứng sản phẩm phần mềm;
i) Các dịch vụ phần mềm khác.
Trong CV 371 cũng nếu rõ :
" Trường hợp Viettel cho thuê phần mềm máy tính không phải là dịch vụ phần mềm theo quy định tại Khoản 3 Điều 9 Nghị định số 71/2007/ND-CP thì hoạt động cho thuê phần mềm máy tính thuộc đối tượng chịu thuế GTGT thuế suất 10%.
Như vậy rõ ràng 2 CV này nói đến 2 nội dụng khác nhau: là THEO QUY ĐỊNH tại khoản 3 Điều 9 và KHÔNG THEO QUY ĐỊNH tại khoản 3 Điều 9..
Tôi đọc rất nhiều câu kết luận của các bạn làm Kế Toán Trưởng lâu năm tổ chức đào tạo qua các trãi nghiệm làm dịch vụ, qua các trãi nghiệm lâu năm kết luận nên các bạn đọc cứ tinmù quán, trở nên mê tín. Tôi không muốn ai tin vào những trao đổi của tôi mà không tư duy, tôi không muốn được tin tưởng một cách mù quáng. Nói chính xác là tôi chưa bao giờ chấp nhận cho học sinh tôi, nhân viên tôi làm và học như một kiểu mù quáng. Lớp đào tạo của tôi thà không có người để mở lớp chứ tôi không nhận dạy cho ai có mục đích đến học để thuộc thêm chiêu thức, biết cách để chế biến, để làm ra bộ sổ sách kế toán. Đó là lý do mà tôi có cách nói và cách viết, cách giảng không lần nào giống lần nào. Tôi có thói quen trị bệnh khi phát hiện bệnh, và trị tận gốc chứ không làm cho người ta cảm tưởng mình hết bệnh. Nên xin lổi nếu cách nói của tôi nhiều bạn thấy khó chịu. Nếu khó chịu thì các bạn không nên đọc. Vì: đúng thầy, đúng thuốc mới có kết quả. tôi không không thể cho thuốc như người khác. Thuôc tôi thường là đắng.
Cảm ơn các bạn đã đoc